“NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY VĂN BẢN NHẬT DỤNG NGỮ VĂN THCS”
05/11/2024
Chia sẻ
MỤC LỤC
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU – ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.. 4
2. Phương pháp phân tích, tổng hợp: 4
VI. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ VÀ SỐ LIỆU ĐIỀU TRA TRƯỚC KHI THỰC HIỆN: 5
6.2. Khảo sát thực tế (số liệu điều tra trước khi thực hiện): 6
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.. 7
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN BẢN NHẬT DỤNG.. 7
1. Nhận diện văn bản nhật dụng: 7
2. Hệ thống văn bản nhật dụng trong chương trình ngữ văn THCS. 8
II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: 9
1.Xác định mục tiêu dạy học. 9
3.1. Dạy học phù hợp với phương thức biểu đạt. 11
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 22
Chữ viết tắt | Chữ viết đầy đủ |
THCS | Trung học cơ sở |
HS | Học sinh |
SGK | Sách giáo khoa |
SGV | Sách giáo viên |
PTBĐ | Phương thức biểu đạt |
GV | Giáo viên |
NXB | Nhà xuất bản |
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
Môn Ngữ Văn có một vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường Trung học cơ sở (THCS): góp phần hình thành những con người có học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho các em hoặc ra đời hoặc tiếp tục học lên ở bậc học cao hơn. Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương quý trọng gia đình, bè bạn; có lòng yêu nước yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác.
Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ trong nghệ thuật, trước hết là trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.
Cho đến nay, hầu hết các văn bản được đưa ra giảng trong nhà trường đều là tác phẩm văn chương hư cấu. Mục tiêu môn ngữ văn cũng như phương hướng tích hợp đòi hỏi học sinh (HS) phải tiếp xúc với loại văn bản đa dạng hơn và tất cả đều gọi chung là văn bản. Dĩ nhiên phần lớn vẫn là tác phẩm văn chương có hư cấu, song bên cạnh sẽ có ít văn bản thuộc loại văn không có hư cấu, trong đó có văn bản nghị luận ( xã hội và văn học) và văn bản nhật dụng.
Do yêu cầu gắn với cuộc sống nên trong hệ thống các văn bản được học ở THCS có diểm mới là những văn bản nhật dụng.
Đó là những văn bản được lựa chọn theo đề tài gắn với những vấn đề rất thời sự và cập nhật với đời sống hiện tại như: môi trường, dân số, di tích văn hoá, danh lam thắng cảnh, các tệ nạn xã hội như ma tuý, thuốc lá, lao động trẻ em, các vấn đề tương lai nhân loại như bảo vệ hoà bình, chống chiến tranh, bảo vệ quyền lợi của bà mẹ, trẻ em, vấn đề hội nhập và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc… Chính vì thế trong các văn bản nhật dụng này có tính lâu dài của sự phát triển lịch sử xã hội.
Chẳng hạn vấn đề môi trường, dân số, bảo vệ di sản văn hoá, chống chiến tranh hạt nhân, giáo dục trẻ em, chống hút thuốc lá… đều là những vấn đề nóng bỏng của hôm nay nhưng đâu phải giải quyết triệt để ngày một ngày hai.
Đối với học sinh THCS các em mới được làm quen với văn bản nhật dụng nên còn nhiều bỡ ngỡ. Bên cạnh đó thực tế các trường THCS hiện nay nhiều đồng chí giáo viên chưa thật quan tâm thích đáng đến phần văn bản này. Do đó
vận dụng đổi mới phương pháp trong tiết dạy văn bản nói chung và văn bản nhật
dụng nói riêng có vai trò vô cùng quan trọng. Học sinh học văn bản nhật dụng
không chỉ để mở rộng hiểu biết toàn diện mà còn tạo điều kiện tích cực để thực hiện nguyên tắc giúp các em hoà nhập với cuộc sống xã hội, rút ngắn khoảng cách giữa nhà trường và xã hội.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Nhìn lại hệ thống văn bản nhật dụng trong SGK Ngữ văn chiếm 10% nhưng tác giả của SGK chỉ hướng dẫn giáo viên trong SGV những chỉ dẫn quan trọng để nhận diện văn bản nhật dụng.
Trong khi trước đó, lý luận dạy học văn chưa từng đặt vấn đề về phương pháp dạy văn bản nhật dụng. Thực trạng này cho thấy sự cần thiết phải tiếp cận với một tầm sâu hơn, có hệ thống hơn các văn bản nhật dụng cả về kiến thức và phương pháp giảng dạy, từ đó góp phần tạo thành cơ sở mang tính khoa học và khả thi khi đáp ứng yêu cầu dạy học có hiệu quả.
Trong thực tiễn dạy học văn bản nhật dụng ở THCS hiện nay đã bộc lộ những bất cập trong kiến thức và phương pháp. Sự mơ hồ về hình thức hiểu loại văn bản nhật dụng, nhất là hình thức phi văn học, sự lạ lẫm khi xác định mục đích của các bài học văn bản nhật dụng khác xa với bài học tác phẩm văn chương, những yêu cầu mới hơn trong việc chuẩn bị các thông tin ngoài văn bản ở cả hai phía giáo viên và học sinh, cách đa dạng hoá các hệ thống dạy học như thế nào là tương hợp với bài học văn bản nhật dụng, sử dụng như thế nào các phương pháp dạy học nhất là các phương pháp dạy học mới trong hoạt động dạy và học, tạo không khí lớp học như thế nào để tăng tính hứng thú và hiệu quả dạy học tích cực cho các bài văn bản nhật dụng… là những vấn đề không thể bỏ qua hoặc giải quyết hời hợt.
Xuất phát từ những lí do trên, nên khi giảng dạy thực hiện chương trình Ngữ văn THCS, bằng kinh nghiệm của bản thân kết hợp với việc dự giờ, khảo sát kết quả học tập trong học sinh của đồng nghiệp, và việc tự học tập nghiên cứu một số tài liệu tham khảo, tôi đã rút ra tôi đã rút ra sáng kiến: “Nâng cao hiệu quả dạy học văn bản nhật dụng Ngữ văn THCS” nhằm đưa ra hướng giải quyết một số khúc mắc trong hoạt động dạy học văn bản nhật dụng trong SGK Ngữ văn THCS để dần dần tháo gỡ những khó khăn khăn, giúp giáo viên hoàn thành tốt các yêu cầu, mục tiêu dạy học văn bản nhật dụng và học sinh nhận thức sâu sắc hơn những vấn đề từ thực tiễn cuộc sống.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Dựa trên cơ sở vai trò và tầm quan trọng của văn bản nhật dụng là tính thời sự, cập nhật với đời sống hiện tại và việc học tập của HS, tôi đề xuất một số biện
pháp dạy học góp phần tạo hứng thú, nâng cao chất lượng học tập của HS đồng
thời nâng cao hiệu quả giờ lên lớp của giáo viên.
Đưa ra hướng giải quyết một số khúc mắc về kiến thức và phương pháp dạy học, từ đó có thêm kinh nghiệm để dạy tốt phần văn bản nhật dụng, đáp ứng nhu cầu đổi mới chương trình Ngữ văn THCS hiện nay.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU – ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu : Các văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn 8 THCS và quá trình dạy văn bản nhật dụng ở trường THCS.
– Thời gian nghiên cứu : Thời gian thực hiện là 2 năm học (từ tháng 8 năm 2015 đến tháng 4 năm 2017).
IV. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
1. Tổng hợp cơ sở lí luận của văn bản nhật dụng
2. Khảo sát thực trạng học tập của HS.
3. Đề xuất một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của các đối tượng HS trong giờ học văn bản nhật dụng.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp quan sát:
- Quan sát là việc con người sử dụng các giác quan để thu thập dữ liệu, số liệu.
- Các dạng quan sát:
+ Quan sát toàn diện hay từng hoạt động
+ Sử dụng quan sát lâu dài hoặc trong một thời gian ngắn
+ Quan sát thăm dò hoặc đi sâu
+ Quan sát phát hiện hoặc kiểm nghiệm.
2. Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Khi đưa ra một số vấn đề nào đó thì người thầy phải nêu ra tình huống có vấn đề thật rõ ràng để học sinh nắm được. Sau đó đi vào từng khía cạnh từ nhỏ đến lớn, phân tích kĩ càng, tránh lan man dài dòng. Khi phân tích xong, GV phải đúc kết lại đưa ra kết luận tổng hợp nhất, làm cho bản chất vấn đề được bộc lộ rõ ràng nhất, đẽ hiểu nhất thì mới thu được kết quả trong giảng dạy.
3. Phương pháp tích cực:
Là phương pháp hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Thực chất của phương pháp tích cực đòi hỏi người dạy phải phát huy tính tích cực chủ động của người học.
4. Phương pháp tích hợp:
- Tích hợp nhiều kĩ năng trong một môn học.
- Tích hợp chương trình chính khoá và ngoại khoá.
- Tích hợp giữa kiến thức và thực tiễn.
5. Phương pháp đàm thoại.
Người thầy cần xây dựng được một hệ thống câu hỏi để HS trả lời nhằm
gợi mở cho các em những vấn đề mới, tự khám phá những tri thức mới bằng sự
tái hiện những tài liệu đã học hoặc từ kinh nghiệm đã tích luỹ được trong cuộc sống, giúp học sinh tự kiểm tra, đánh giá việc lĩnh hội tri thức.
VI. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ VÀ SỐ LIỆU ĐIỀU TRA TRƯỚC KHI THỰC HIỆN:
6.1.Thực trạng:
Trong quá trình giảng dạy và dự giờ các đồng nghiệp, chúng tôi nhận thấy một số thực trạng sau:
a, Học sinh:
- Học sinh của trường nhìn chung ngoan,có ý thức học tập bộ môn song bên cạnh đó, vẫn còn rất nhiều học sinh chưa có ý thức tự giác trong học tập, mải chơi, bị lôi cuốn vào các trò chơi điện tử làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em.
- Nhiều em có cả bố mẹ đều làm ăn xa, điều kiện chăm lo của phụ huynh học sinh có nhiều hạn chế.
- Học sinh chưa thật hứng thú với môn học, đặc biệt là học những văn bản nhật dụng.
b, Giáo viên:
- GV coi các văn bản này là một thể loại, cụ thể giống như truyện, kí ...nên chỉ chú ý dựa vào các đặc điểm của thể loại như: cốt truyện, nhân vật, tình huống, sự việc ghi chép để phân tích nội dung.
- Giáo viên thuờng chú ý khai thác và bình giá trên nhiều phương diện của sáng tạo nghệ thuật như: cốt truyện, nhân vật, cách kể mà chưa chú trọng đến vấn đề xã hội đặt ra trong văn bản gần gũi với học sinh.
- Quá nhấn mạnh yêu cầu gắn kết tri thức trong văn bản với đời sống mà giáo viên chú ý nhiều tới liên hệ thực tế, dẫn đến việc khai thác kiến thức cơ bản chưa đầy đủ.
- GV chưa vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học cũng như các biện pháp tổ chức dạy học nhằm gây hứng thú cho HS.Trong tiết học thường khô khan, thiếu sinh động, chưa kích thích hứng thú và sự yêu thích của học sinh khi học văn.
- Về phương tiện dạy học mới chỉ dừng lại ở việc dùng bảng phụ, tranh ảnh minh hoạ trong khi đó có một số văn bản nếu học sinh được xem những đoạn băng ghi hình sẽ sinh động hơn rất nhiều. Nhưng hầu hết GV không chú ý đến vấn đề này.
- GV còn có tâm lý phân vân không biết có nên sử dụng phương pháp giảng
bình khi dạy những văn bản này không và nếu có thì nên sử dụng ở mức độ như thế nào?
- Học sinh chưa biết liên hệ thực tế, chưa biết vận dụng các môn học khác để
giải quyết vấn đề nêu ra trong văn bản nhật dụng.
Với những thực trạng trên tôi đã rút ra được “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học văn bản nhật dụng Ngữ văn THCS” nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy.
6.2. Khảo sát thực tế (số liệu điều tra trước khi thực hiện):
Từ mục đích là đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng giáo dục HS nên trước khi thực hiện đề tài đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát mức độ nhận thức, hiệu quả sau mỗi tiết dạy, sự hứng thú của HS qua quan sát, trò chuyện và qua các bài tập đánh giá HS thực hiện trong các hoạt động học của học sinh trường THCS nơi tôi công tác với 78 học sinh khối 8 và kết quả cụ thể như sau:
Đầu năm học 2016-2017 | Giỏi | Số lượng | 6 |
% | 6,7 | ||
Khá | Số lượng | 16 | |
% | 20 | ||
Trung bình | Số lượng | 34 | |
% | 44 | ||
Yếu | Số lượng | 22 | |
% | 29,3 |
Qua khảo sát thực tế tôi thấy kết quả giáo dục của HS chất lượng về mặt nhận thức của HS còn thấp, nhiều HS chưa hứng thú, chưa mạnh dạn, chưa tự tin tích cực tham gia giờ học, các kiến thức, kỹ năng thực hiện các bài tập còn kém, các ý kiến thảo luận nhóm chưa sôi nổi nội dung thảo luận chưa trọng tâm... vì thế dẫn đến kết quả nhiều HS trung bình, HS đạt mức độ khá giỏi rất thấp.
Tôi thấy đây là một nhiệm vụ bức thiết cần tìm hướng giải quyết để đưa hoạt động dạy học môn Ngữ văn nói chung và dạy học văn bản nhật dụng nói riêng được hiệu quả.Vì vậy tôi bắt tay ngay vào việc lập kế hoạch và triển khai thực hiện một số các biện pháp ở tại trường học nơi tôi đang công tác nhằm tháo gỡ những khó khăn khăn, giúp giáo viên hoàn thành tốt các yêu cầu, mục tiêu dạy học văn bản nhật dụng và học sinh nhận thức sâu sắc hơn những vấn đề từ thực tiễn cuộc sống.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN BẢN NHẬT DỤNG
1. Nhận diện văn bản nhật dụng:
Văn bản nhật dụng là gì? "Văn bản nhật dụng không phải là một khái niệm chỉ loại thể, hoặc chỉ kiểu văn bản. Nói đến văn bản nhật dụng trước hết là nói đến tính chất nội dung của văn bản. Đó là những bài viết có nội dung gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như: thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số, quyền trẻ em, ma tuý...Văn bản nhật dụng có thể dùng tất cả các thể loại cũng như các kiểu văn bản". (Ngữ văn 6, tập 2, trang 125-126). Sau đó ý kiến này còn được lý giải thêm:" Có một nội dung mà chương trình Ngữ văn quan tâm là sự cập nhật, gắn kết với đời sống, đưa học sinh trở lại với những vấn đề vừa quen thuộc, vừa gần gũi hàng ngày , vừa có ý nghĩa lâu dài, trọng đại mà tất cả chúng ta đều quan tâm hướng tới...Những vấn đề này, "phần cứng" của chương trình có thể chưa đáp ứng được... Nếu các văn bản văn chương nghệ thuật lấy hình thức( kiểu văn bản và thể loại ) làm tiêu chí lựa chọn, thì văn bản nhật dụng được lựa chọn theo tiêu chí nội dung như đã nêu. Chính vì thế, văn bản nhật dụng có thể thuộc bất cứ kiểu văn bản hoặc bất cứ thể loại nào."( Ngữ văn 7, tập một( SGV), NXB Giáo dục Hà Nội Tr 5-6).
Các chỉ dẫn trên có thể xem là tiêu chí cơ bản để nhận diện các văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS.
Nhìn vào hệ thống văn bản nhật dụng trong SGK Ngữ văn THCS, ta sẽ nhận thấy chúng tồn tại dưới nhiều kiểu văn bản khác nhau. Đó có thể là văn bản thuyết minh( Cầu Long Biên- chứng nhân lịch sử; Ca Huế trên sông Hương; Động Phong Nha), văn bản nghị luận( Đấu tranh cho một thế giới hoà bình; Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em). Đó có thể là một bài báo thuyết minh khoa học( Thông tin về ngày trái đất năm 2000; Ôn dịch thuốc lá). Nhưng cũng có thể là một văn bản văn học thuộc loại tự sự (Cuộc chia tay của những con búp bê)...Từ các hình thức đó, những vấn đề thời sự cập nhật của đời sống cá nhân và cộng đồng hiện đại được khơi dậy, chẳng hạn là những báo động về sự gia tăng dân số, sự huỷ hoại môi trường, sức khoẻ và chiến tranh hạt nhân đang đe doạ sự sống của con người trên trái đất, những quan tâm về vai trò của người mẹ và nhà trường, về quyền sống của trẻ em, về di tích lịch sử, bản sắc văn hoá dân tộc...Các bài học về những vấn đề đó sẽ đánh thức và làm giầu tình cảm và ý thức công dân, cộng đồng trong mỗi
người học, giúp các em hoà nhập hơn với cuộc sống xã hội mà chúng ta đang
sống.
2. Hệ thống văn bản nhật dụng trong chương trình ngữ văn THCS
Lớp | Tên văn bản | Đề tài nhật dụng của văn bản |
Ngữ văn 6 | - Cầu Long Biên- chứng nhân lịch sử - Bức thư của thủ lĩnh da đỏ - Động Phong Nha | - Di tích lịch sử
- Quan hệ giữa thiên nhiên và con người - Danh lam thắng cảnh |
Ngữ văn 7 | - Cổng trường mở ra - Mẹ tôi - Cuộc chia tay của những con búp bê - Ca Huế trên sông Hương | - Nhà trường - Người mẹ - Quyền trẻ em
- Văn hoá dân tộc |
Ngữ văn 8 | - Thông tin về ngày trái đất năm 2000 - Ôn dịch thuốc lá
- Bài toán dân số | - Môi trường
- Tệ nạn xã hội, bảo vệ sức khoẻ. - Dân số |
Ngữ văn 9 | - Đấu tranh cho một thế giới hoà bình - Phong cách Hồ Chí Minh
- Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em | - Bảo vệ hoà bình, chống chiến tranh - Hội nhập với thế giới và bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc
- Quyền sống của con người |
Bảng thống kê trên cho thấy các văn bản nhật dụng được phân phối dạy học đều ở các khối lớp: 6,7,8,9, bình quân mỗi khối lớp 03 văn bản, riêng khối 7 có 04 văn bản. Ý nghĩa nội dung các văn bản này đều là những vấn đề gần gũi, quen thuộc, bức thiết đối với con người và cộng đồng xã hội hiện đại. Cùng với sự phát triển về tâm lý và nhận thức của học sinh, các vấn đề được đề cập trong các văn bản nhật dụng ngày một phức tạp hơn.
Vậy để mỗi văn bản nhật dụng thấm sâu và có ý nghĩa thiết thực đến với từng học sinh thì khi dạy các văn bản này, mỗi giáo viên cần am hiểu sâu sắc về nội dung, hình thức và ý nghĩa nhân văn của từng văn bản, đổi mới phương pháp
dạy học để mang lại hiệu quả cao nhất.
II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu, tìm hiểu, học hỏi, bằng sáng kiến của cá nhân, tôi xin đề xuất một số giải pháp, biện pháp dạy học văn bản nhật dụng như sau:
1. Xác định mục tiêu dạy học
Cũng giống như các môn học khác, môn Ngữ văn giáo dục kiến thức, kĩ năng, thái độ. Ngoài ra môn Ngữ văn còn bộc lộ rõ nét hơn, phong phú hơn đó là phải hoà hợp 3 phân môn trong một chỉnh thể bài học với các mục tiêu tích hợp của nó nhưng lại vừa tách tương đối với mỗi phân môn thành từng bài học đảm bảo các mục tiêu cụ thể do đặc trưng của mỗi phân môn đòi hỏi; hơn nữa yêu cầu đọc - hiểu theo kiểu văn bản, theo các loại hình nội dung văn bản còn đòi hỏi tính định hướng rõ rệt hơn trong việc xác định mục tiêu bài học.
Văn bản nhật dụng không phải là một khái niệm chỉ thể loại hoặc chỉ kiểu văn bản, nhưng không có nghĩa chúng là các hình thức vô thể loại. Tuy nhiên sự nhìn nhận một số văn bản theo loại hình nội dung đáp ứng nhu cầu cập nhật về đề tài, gợi quan tâm chú ý của người học về những vấn đề thời sự xã hội có ý nghĩa bức thiết đối với mỗi cá nhân và cộng đồng đã khiến sự có mặt của văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS có thể chưa cần là sự hiện diện của các hiện tượng thẫm mĩ tiêu biểu, mà cần hơn là trong tư cách của các thông điệp tư tưởng được trình bày dưới dạng văn bản ngôn từ.
Từ nhận thức này, ta thiết kế hoạt động dạy học văn bản nhật dụng mà trước hết là việc xác định mục tiêu của bài học.
Vậy đâu là mục tiêu đặc thù của bài học văn bản nhật dụng?
Có 2 mục tiêu quan trọng là trang bị kiến thức và trau dồi tư tưởng, tình cảm, thái độ.
Với kiến thưc, bài học văn bản nhật dụng giúp HS hiểu đúng ý nghĩa xã hội mà chủ yếu là ý nghĩa thời sự cập nhật gần gũi qua việc nắm bắt vấn đề được đề cập tới trong văn bản.
Đối với tác phẩm văn chương, hoạt động đọc - hiểu là việc đọc nghiền ngẫm, phân tích, cảm thụ những vẻ đẹp của nghệ thuật ngôn từ, để từ đó hiểu được những khái quát về dời sống tác giả. Nghĩa là người đọc tự mình khám phá và rung động về ý nghĩa đời sống và giá trị thẩm mĩ của tác phẩm. Đó chính là mục tiêu kiến thức của bài học văn bản nghệ thuật.
Còn đối với văn bản nhật dụng thì mục tiêu kiến thức của bài học sẽ nhấn vào nội dung tư tưởng của văn bản, tức là nắm bắt vấn đề xã hội gần gũi, bức thiết, mang tính thời sự hơn là đi sâu vào khám phá giá trị hình thức của văn bản.
Như vậy, việc xác định mục tiêu kiến thức của bài học văn bản nhật dụng
phải bắt đầu từ sự rõ ràng trong phân loại văn bản.
Chẳng hạn, cùng một văn bản như “ Cuộc chia tay của những con búp bê” nếu quan niệm đây là một tác phẩm văn chương hư cấu thì yêu cầu đọc - hiểu sẽ bao gồm phát hiện, bình giá trên nhiều phương tiện của sáng tạo nghệ thuật như: cốt truyện, nhân vật, cách kể và cuối cùng là sự cảm nhận về khái quát xã hội của tác giả, biểu hiện ở các lớp nghĩa của tác phẩm như: vấn đề cái giá của bi kịch gia đình trong các vụ li hôn, mái nhà yên ấm, cần thiết như thế nào đối với con trẻ, vẻ đẹp tình anh em, hoặc vấn đề quyền trẻ em…
Nhưng nhìn nhận văn bản này là một văn bản nhật dụng thì phạm vi đọc - hiểu cho dù không thể bỏ qua các dấu hiệu hình thức nổi bật của văn bản, nhưng chủ yếu là phát hiện nội dung, chưa cần là các chủ đề khái quát những vấn đề sâu xa của đời sống và số phận của con người, mà chỉ cần là vấn đề xã hội đặt ra trong văn bản gần gũi với HS, thức dậy không chỉ sự chia sẻ bất hạnh với bạn bè đồng cảnh ngộ mà còn ý thức về quyền hưởng niềm vui và hạnh phúc.
Đó chính là ý nghĩa cập nhật của bài học này và cũng chính là mục tiêu kiến thức chủ yếu của văn bản nhật dụng : “Cuộc chia tay của những con búp bê”.
Những biến chuyển của xã hội không chỉ làm thay đổi tích cực thời đại, nâng cao cuộc sống con người mà còn tạo ra vô số những tiêu cực và hiểm họa mà chính ta cần nhận thức và ứng phó không phải trên phạm vi một dân tộc, một quốc gia mà cả toàn cầu, vì sự tốt đẹp, bền vững của cuộc sống trên trái đất.
Chẳng hạn vấn đề ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội và sức khoẻ cộng đồng, vấn đề dân số, quyền sống của trẻ em, vấn đề chống chiến tranh hạt nhân, bảo vệ hoà bình thế giới…
Về hình thức thể hiện, các văn bản nhật dụng không nằm ngoài cách thức của phương thức biểu đạt (PTBĐ) nào đấy.
Có thể nhận ra phương thức thuyết minh nổi trội trong văn bản “Ôn dịch, thuốc lá”, “ Thông tin về ngày trái đất năm 2000” nhưng ở những văn bản khác như “ Cầu Long Biên, chứng nhân lịch sử” hay là “Ca Huế trên sông Hương” không thuần tuý thuyết minh khi yếu tố miêu tả và biểu cảm đan xen.
Trong khi PTBĐ biểu cảm nổi bật trong văn bản “Cổng trường mở ra”, “Mẹ tôi”, “ Bức thư của thủ lĩnh da đỏ” thì tính nghị luận lại là cách biểu đạt làm thành sức truyền cảm của các văn bản khác như “ Phong cách Hồ Chí Minh” “Đấu tranh cho một thế giới hoà bình”
Như vậy, dạy học văn bản nhật dụng vẫn theo nguyên tắc dựa vào các dấu hiệu hình thức để khám phá nội dung biểu đạt nhưng không phải là mục tiêu
chính của bài học văn bản nhật dụng. Mà việc cung cấp và mở rộng hiểu biết về
những vấn đề gần gũi, bức thiết đang diễn ra trong đời sống xã hội hiện đại, từ đó tăng cường ý thức công dân đối với cộng đồng trong mỗi học sinh. Đó sẽ là định hướng mục tiêu chung của các bài học văn bản nhật dụng cần được quán triệt trong dạy học phần văn bản nhật dụng ở chương trình THCS.
2. Chuẩn bị
2.1. Kiến thức
Giáo viên thu thập (đồng thời giao cho các nhóm học sinh cùng sưu tầm) các tư liệu ngoài văn bản liên quan đến chủ đề văn bản trên các nguồn thông tin đại chúng (phát thanh, truyền hình, mạng internet, báo chí, sách vở, tranh ảnh, âm nhạc…) làm tư liệu cho dạy học văn bản nhật dụng gắn kết với đời sống.
Ví dụ: Để chuẩn bị cho bài học “Ôn dịch, thuốc lá” giáo viên cần thu thập tư liệu (như tranh, ảnh, báo chí… ) về các bệnh do thuốc lá gây ra, lấy đó làm chất liệu minh hoạ cho bài giảng. Đồng thời cũng giao cho HS sưu tầm các tài liệu như tranh, ảnh, báo chí…
2.2. Phương tiện
Yêu cầu truyền thông cập nhật của các chủ đề nhật dụng đòi hỏi các hình thức tổ chức dạy học đáp ứng cung cấp và khai thác thông tin nhanh và phong phú tới người học. Các phương tiện dạy học truyền thống như bảng đen, phấn trắng, thậm chí cả máy Projector là cần thiết nhưng chưa thể đáp ứng được hết yêu cầu dạy học văn bản nhật dụng theo tinh thần nói trên. Ổ đây hệ thống tư liệu bồi đắp trực tiếp cho chủ đề văn bản nhật dụng và mở rộng chủ đề đó ngoài văn bản (báo chí, mĩ thuật, điện ảnh…) nếu được thu thập thiết kế và trình chiếu trên các phương tiện dạy học điện tử sẽ là phương tiện tạo hiệu ứng tích cực nhất trong dạy học văn bản nhật dụng.
Ví dụ dạy văn bản “ Ca Huế trên sông Hương” ta có thể dùng đĩa ghi hình về Huế, ghi âm về các làn điệu ca Huế cùng các làn điệu dân ca đặc sắc trên mọi miền đất nước thì chắc chắn rằng sẽ tạo hiệu quả cao trong việc dạy - học.
3. Phương hướng dạy học
3.1. Dạy học phù hợp với phương thức biểu đạt.
Nhìn lại hệ thống văn bản nhật dụng trong SGK THCS
Tên văn bản | PTBĐ | Thể loại |
Cầu Long Biên, chứng nhân lịch sử Bức thư của thủ lĩnh da đỏ Động Phong Nha Cổng trường mở ra Mẹ tôi Cuộc chia tay của những con búp bê Ca Huế trên sông Hương Thông tin về ngày trái đất năm 2000 Ôn dịch, thuốc lá Bài toán dân số Phong cách Hồ Chí Minh Đấu tranh cho một thế giới hoà bình Tuyên bố thuế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em | Thuyết minh Biểu cảm Thuyết minh Biểu cảm Biểu cảm Tự sự Thuyết minh Thuyết minh Thuyết minh Nghị luận Thuyết minh Nghị luận Nghị luận
| Bút kí
Bút kí
Truyện ngắn Bút kí |
Ta thấy:
- Nếu gọi tên văn bản nhật dụng bằng thể loại văn học, thì ngoại trừ “Cuộc chia tay của những con búp bê”, “Cầu Long Biên, chứng nhân lịch sử”, “Động Phong Nha”, “Ca Huế trên sông Hương”, còn lại phần lớn là các bức thư, bài báo khoa học khó gọi chúng bằng tên thể loại. Trong khi nếu xác định hình thức của văn bản này theo PTBĐ dẽ dàng nhận ra kiểu văn bản của chúng. Điều đó cho thấy dạy văn bản nhật dụng đáp ứng mục đích và cách thức biểu đạt sẽ phù hợp hơn so với dạy học chúng theo đặc trưng thể loại văn học.
Khi thiết kế chương trình dạy học văn bản nhật dụng, các tác giả SGK Ngữ văn THCS nhấn mạnh rằng dạy học văn bản nhật dụng chủ yếu là tập trung khai thác vấn đề nội dung tư tưởng đặt ra ở mỗi văn bản. Nhưng trong bất kỳ văn bản nào, nội dung không nằm ngoài hình thức tương ứng của nó, cho nên việc đọc - hiểu nội dung văn bản nhật dụng không nằm ngoài nguyên tắc đi từ các dấu hiệu tình thức biểu đạt tới khám phá mục đích giao tiếp trong hình thức ấy cho dù không cần sa đà vào hình thức của chúng. Trong dạy học văn bản không thể hiểu đúng nội dung tư tưởng văn bản nếu không được đọc từ dấu hiệu hình thức của chúng.
Chẳng hạn nếu văn bản nhật dụng được tạo theo PTBĐ tự sự như Cuộc chia tay của những con búp bê” thì hoạt động dạy học sẽ được tiến hành theo các yếu tố tự sự đặc trưng như: sự việc, nhân vật, lời văn, ngôi kể; từ đó hiểu chủ đề nhật dụng đặt ra trong văn bản này là vấn đề quyền trẻ em trong cuộc sống phức tạp của gia đình thời hiện đại.
Khi văn bản được tạo theo phương thức biểu cảm như “ Cổng trường mở ra” nhằm mục đích nhận thức vai trò của nhà trường đối với sự tiến bộ của mỗi con người, thì con đường dạy học để hiểu mục tiêu ấy từ văn bản sẽ dạy học theo các dấu hiệu của văn bản biểu cảm, biểu hiện qua lời nói thấm đẫm cảm
xúc tư duy của tác giả và giàu có hình ảnh liên tưởng trong mỗi sự việc.
Do mục đích trình bày, thảo luận để thuyết phục bạn đọc theo những vấn đề
thời sự khoa học, chính trị, xã hội được mọi người quan tâm trong cuộc sống
đương thời, nên PTBĐ phổ biến của các văn bản nhật dụng thường là thuyết minh và nghị luận. Nhưng cũng như trong mọi văn bản thông thường khác, điều đó không chỉ thuần tuý một phương thức nghị luận hay thuyết minh.
Trong văn bản nhật dụng, sự đan xen các yếu tố phương thức khác thường xuất hiện khi người viết không chỉ trình bày các tri thức về đối tượng hoặc sự nhận thức tỏ tường về hiện tượng mà còn muốn làm cho sự vật, hiện tượng được trình bày hiện lên rõ nét, đồng thời thể hiện trong đó cảm xúc hoặc sự suy tư của mình.
Chẳng hạn, nếu lời văn giàu tư liệu, hình ảnh và cảm xúc là những nét hình thức nổi bật của văn bản thuyết minh “ Cầu Long biên- chứng nhân lịch sử” thì dạy học tương ứng sẽ nhấn vào các chi tiết miêu tả và biểu cảm.
Ví dụ: ? Những cuộc chiến tranh nào đã đi qua trên cầu Long Biên?
? Việc nhắc lại những câu thơ của Chính Hữu gắn liền với những ngày đầu năm 1947 – ngày Trung đoàn Thủ đô vượt cầu Long Biên đi kháng chiến đã xác nhận ý nghĩa chứng nhân nào của cầu Long Biên?
? Số phận của cầu Long Biên trong những năm chống Mĩ được ghi lại như thế nào?
? Lời văn miêu tả trong đoạn này có gì đặc biệt?
? Từ đó, cầu Long Biên đóng vai trò chứng nhân chiến tranh như thế nào?
? Tác giả đã chia sẻ tình cảm như thế nào đối với cây cầu chứng nhân này?
+ Nếu thuyết minh kết hợp với nghị luận, miêu tả và bộc lộ cảm xúc là đặc điểm hình thức của văn bản “ Ca Huế trên sông Hương” thì vận dụng việc dạy học tương ứng sẽ chú ý đến phát hiện và phân tích ý nghĩa biểu đạt của các yếu tố đó trong văn bản.
Ví dụ: Về hình thức văn bản này kết hợp nhiều hình thức như nghị luận, chứng minh, miêu tả, biểu cảm.
Hãy quan sát mỗi phần văn bản để xác định PTBĐ chính của mỗi phần
+ Nếu phương thức lập luận kết hợp với biểu cảm là hình thức tồn tại của văn bản “ Đấu tranh cho một thế giới hoà bình” thì dạy học tương ứng sẽ theo phương hướng khám phá lí lẽ và chứng cớ thể hiện quan điểm được nêu ra trong văn bản qua đó là thái độ nhiệt tình của tác giả.
Ví dụ có thể tổ chức cho HS đọc hiểu phần cuối văn bản bằng hệ thống câu hỏi sau:
? Phần cuối văn bản có 2 đoạn văn. Đoạn văn nào nói về chúng ta chống vũ
khí hạt nhân?
? Đoạn nào là thái độ của tác giả về việc này?
? Em hiểu thế nào về “bản đồng ca của những người đòi hỏi một thế giới
không có vũ khí và một cuộc sống hoà bình, công bằng”?
? Ý tưởng của tác giả về việc “ mở một nhà băng lưu trữ trí nhớ có thể tồn tại được sau thảm hoạ hạt nhân” bao gồm những thông điệp gì?
? Em hiểu gì về tác giả từ những thông điệp đó của ông?
- GV: tóm tắt
- Bản đồng ca của những người đòi hỏi một thế giới không có vũ khí và một cuộc sống hoà bình, công bằng là tiếng nói của công luận thế giới chống chiến tranh, là tiếng nói yêu chuộng hoà bình của nhân dân thế giới.
- Thông điệp về một cuộc sống đã từng tồn tại trên trái đất về những kẻ đã xoá bỏ cuộc sống trên trái đất này bằng vũ khí hạt nhân.
- Tác giả là người yêu chuộng hoà bình, quan tâm sâu sắc đến vũ khí hạt nhân với nỗi lo lắng cao độ.
Dạy học văn bản nhật dụng chú ý các dấu hiệu cách thức biểu đạt này không chỉ vì sự cần thiết trong kiến thức đọc – hiểu mà còn vì yêu cầu của dạy học tích hợp trong mọi bài học ngữ văn.
3.2. Dạy học tích hợp.
Dạy học văn bản nhật dụng cũng yêu cầu phương pháp tích hợp. Văn bản nhật dụng có thể là văn bản văn học nhưng cũng có thể là văn bản phi văn học. Dạy học văn bản nhật dụng theo đặc trưng phương thức biểu đạt (PTBĐ) của mỗi văn bản đòi hỏi phải tích hợp kiến thức, kỹ năng của cả hai phân môn văn (đọc – hiểu) với Tập làm văn ( kiểu văn bản).
Ví dụ như dạy học văn bản nhật dụng “Đấu tranh cho một thế giới hoà bình”, khi chú ý đến cấu trúc văn bản có ý thức tích hợp đọc văn với đặc trưng của văn bản nghị luận.
* Câu hỏi đàm thoại
? Văn bản “Đấu tranh cho một thế giới hoà bình” nhằm thể hiện một tư tưởng nổi bật. Đó là tư tưởng nào?
* Câu hỏi trắc nghiệm:
? Tư tưởng ấy được biểu hiện trong hệ thống gồm 4 luận điểm. Hãy tách đoạn văn theo các luận điểm này:
- Nguy cơ chiến tranh hạt nhân đe doạ cuộc sống trên trái đất.
- Sự tốn kém của cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân.
- Tính phi lý của chiến tranh hạt nhân.
- Loài người cần đoàn kết để ngăn chặn chiến tranh hạt nhân vì một thế giới
hoà bình.
* Câu hỏi thảo luận:
? Tại sao lại coi đây là một bài văn nghị luận chính trị - xã hội?
- GV: tóm tắt
- Tư tưởng “Đấu tranh cho một thế giới hoà bình” được trình bày trong một hệ thống 4 luận điểm.
- Đây là bài nghị luận chính trị - xã hội vì nội dung được trình bày là thái độ đối với vấn dề chiến tranh hạt nhân.
Trong dạy văn bản nhật dụng, gắn kết tri thức trong văn bản với các tri thức ngoài văn bản liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến nội dung văn bản cũng là một phương diện của dạy học tích hợp.
Ví dụ 1:
Trong bài “
Đăng ký thành công. Chúng tôi sẽ phản hồi hoặc liên hệ lại với bạn trong thời gian sớm nhất.