NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TIN HỌC 6 BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠY HỌC TRỰC QUAN
05/11/2024
Chia sẻ
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
--&--
| ||||
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TIN HỌC 6 BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠY HỌC TRỰC QUAN
Lĩnh vực: Tin học
Cấp học : Trung học cơ sở
Năm học : 2016 - 2017
Mục lục | |
Nội dung | Trang |
A. ĐẶT VẤN ĐỀ……………………………………………………. I. Lý do chọn đề tài ………………………………………………….. II. Phạm vi nghiên cứu ………………………………………………. III. Thời gian nghiên cứu …………………………………………….. IV. Đối tượng nghiên cứu ……………………………………………. V. Phương pháp nghiên cứu………………………………………… B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ…………………………………………. I. Cơ sở lý luận……………………………………………………….. II. Cơ sở thực tiễn…………………………………………………….. III. Thực trạng vấn đề………………………………………………… IV. Mô tả giải pháp của đề tài……………………………………..…. 1. Các biện pháp tiến hành:……………………………………….. 1.1. Biện pháp 1: Trực quan hoá thông tin dạy học. 1.2: Biện pháp 2: Tạo những tác nhân kích thích trực quan thông qua biểu trưng ngôn ngữ, biểu trưng đồ họa, biểu trưng tranh ảnh. 1.2.1 Dạy học trực quan bằng biểu trưng ngôn ngữ. 1.2.2 Dạy học trực quan bằng biểu trưng đồ họa. 1.2.3 Dạy học trực quan bằng biểu trưng hình ảnh 1.2.4. Kết hợp các loại hình trực quan. 1.3. Biện pháp 3: Xây dựng các kĩ năng, thực hành. 1.3.1. Kĩ năng nhận biết tính năng các loại biểu tượng. 1.3.2. Rèn luyện kĩ năng thao tác trên máy 1.4. Biện pháp 4: Sử dụng phần mềm hỗ trợ quản lý phòng máy (Netop School hoặc Italic và mạng LAN). 2. Kết quả 2.1. Khả năng áp dụng 2.2. Lợi ích kinh tế- xã hội C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ:…………………………….. I. Kết luận: …………………………………………………………. 1.Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp. 2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp. 3 Những bài học kinh nghiệm II. Khuyến nghị: ……………………………………………………. D. PHỤ LỤC: ………………………………………………………. | 1 1 3 4 4 4 5 5 6 6 7 7 7 9
10 11 12 15 17 17 18 18
19 19 19 21 21 21 21 21 22 23 |
ĐỀ TÀI:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TIN HỌC 6 BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC QUAN
- LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
- Về mặt lí luận
Thực hiện Nghị quyết 40/2000/NQ-QH của Quốc hội và chỉ thị số 14/2001 CTTTg của thủ tướng chính phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Đến nay việc đổi mới giáo dục phổ thông đã trở thành nền nếp sâu rộng từ đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, phương pháp dạy học, đặc biệt là chú trọng đến đối tượng dạy học. Phần lớn giáo viên đứng lớp đã thích nghi với chương trình, phương pháp mới nhất là sử dụng, khai thác triệt để tác dụng thiết bị thực hành, của trang thiết bị, phương tiện dạy học nh bảng phụ, tranh ảnh, thiết bị thí nghiệm - thực hành, máy chiếu qua đầu, máy chiếu đa chức năng, .....
Xuất phát từ cuộc vận động ứng dụng đẩy mạnh công nghệ thông tin vào dạy học của Bộ giáo dục, Sở giáo dục, Phòng giáo dục và Ban giám hiệu nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Đặc biệt là bộ môn Tin học, môn Tin học là một môn khoa học công cụ, tri thức và kỹ năng Tin học được áp dụng rộng rãi, hỗ trợ đắc lực cho rất nhiều ngành khoa học khác nhau trong hầu hết lĩnh vực của đời sống và là một phần không thể thiếu của trình độ văn hóa phổ thông của con người trong thời đại mới. Bởi vậy dạy tin học cho học sinh không chỉ truyền thụ nội dung đơn giản, mà phải hướng cho học sinh những nhận thức, những hiểu biết ngang tầm thời đại...
Do hạn chế về nhiều mặt cơ sở vật chất, trang thiết bị, trình độ giáo viên... mà đôi khi phương pháp dạy học đã không tận dụng hết những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, để truyền tải nhiều thông tin cho người học một cách trực quan nên chất lượng dạy và học có mặt hạn chế.
Sự thành công của một tiết dạy ngoài phương pháp giảng dạy của giáo viên và cách học của học sinh, còn cần sự có mặt của đồ dùng, phương tiện, thiết bị và phần mềm dạy học. Chính vì vậy mà bản thân tôi luôn cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, trao đổi với đồng nghiệp và nghiên cứu các ứng dụng của thiết bị và phần mềm dạy học phù hợp với đặc trưng của bộ môn. Trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi và ứng dụng đó bản thân tôi đã tìm ra một số biện pháp hữu ích góp phần trong việc nâng cao chất lượng bộ môn Tin học lớp 6.
Để nâng cao chất lượng môn tin học nói chung và tin học 6 nói riêng tôi đã đăng kí nghiên cứu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao chất lượng dạy học môn tin học 6 bằng phương pháp dạy học trực quan”, đề ra một số biện pháp về việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan với đồ dùng dạy học đó là máy chiếu (Projecter hoặc Tivi màn hình lớn), các phần mềm dạy học (Netop school, Violet..), tranh ảnh, biểu tượng... mà bản thân tôi đã nghiên cứu và áp dụng thành công tại đơn vị trường THCS mà tôi đang công tác.
- Về mặt thực tiễn
Môn tin học là bộ môn gắn liền với máy tính và các thiết bị, phần mềm tin học. Đây là bộ môn có ứng dụng nhiều công nghệ mới, thiết bị mới và đặt biệt cần có nhiều chi phí để để mua sắm trang thiết bị học tập. Phần lớn học sinh chưa có đủ điều kiện để tự trang bị cho mình các đồ dùng học tập cần thiết. Chính vì vậy việc học tập môn tin học chỉ dừng lại ở mức độ học lý thuyết sẽ khiến các em khó hiểu và khó nắm bắt, ghi nhớ kiến thức... Bên cạnh đó, trong bộ môn tin học còn có nhiều thuật ngữ chuyên môn có sử dụng cả ngôn ngữ Tiếng Việt và ngôn ngữ tiếng Anh. Để giải quyết vấn đề trên ta cần kết hợp giữa việc học lí thuyết với thực hành với sử dụng các hình ảnh minh họa trực quan giảng dạy để học sinh dễ nhận biết, ghi nhớ và nắm bắt các kiến thức hơn.
Qua các năm giảng dạy bộ môn Tin học lớp 6, tôi nhận thấy rằng nếu truyền thụ tri thức chỉ thông qua lời nói thì học sinh cảm thấy mệt mỏi, không có hứng thú trong học tập, việc tiếp thu bài giảng của học sinh không cao. Khi sử dụng phương tiện trực quan trong bài giảng giúp học sinh dễ dàng tiếp thu và tham gia bài giảng một cách tích cực và chủ động. Phương tiện dạy học vừa điều khiển nhận thức một cách sinh động, vừa là nguồn tri thức phong phú để lĩnh hội tri thức và rèn luyện kỹ năng. Phương pháp dạy học trực quan là một trong những phương pháp dạy học tích cực giúp học sinh dễ dàng chiếm lĩnh kiến thức thông qua quan sát. Tuy vậy, trong quá trình dạy học một số học sinh vẫn chưa chú ý đến sự hướng dẫn của giáo viên nên việc chiếm lĩnh kiến thức vẫn còn thụ động. Vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên phải biết kết hợp các phương pháp dạy học một cách thích hợp, linh hoạt khai thác và vận dụng tốt các phương tiện sẽ kích thích được hứng thú tư duy của học sinh.
Việc khai thác tốt các hình ảnh và mô hình đưa ra thông qua phương pháp dạy học trực quan trong quá trình dạy học không chỉ giúp học sinh tiếp thu kiến thức mới nhanh hơn, hiệu quả hơn mà còn rèn luyện kỹ năng quan sát, phân tích, dự đoán, so sánh, khái quát, kỹ năng vận dụng để học sinh nâng cao kỹ năng kiến thức và có hứng thú hơn đối với môn học.
Một thực tế khác là ý thức học tập của một số học sinh chưa cao, chưa thực sự hứng thú trong học tập, lười hoạt động, không tích cực tự giác, ý thức tự học, tự rèn luyện yếu hoặc chỉ biết đến máy tính như một công cụ giải trí.
Qua điều tra khảo sát về cả lí thuyết và thực hành tôi tiến hành đã thu được kết quả như sau:
Lớp | Tổng số | Giỏi | Khá | TB | Yếu | Kém | |||||
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | ||
6A | 32 | 3 | 9.3 | 6 | 18.7 | 11 | 34 | 9 | 28 | 3 | 9.3 |
6B | 35 | 0 | 0 | 7 | 20 | 14 | 40 | 10 | 28.6 | 4 | 11.4 |
6C | 33 | 2 | 6.1 | 5 | 15.1 | 15 | 45.5 | 8 | 24.2 | 3 | 9.1 |
Qua kết quả khảo sát thì đa số các em nắm kiến thức lí thuyết còn yếu, các em hay quên và chưa vận dụng vào thực hành được nếu không có sự hướng dẫn của giáo viên.
Tỉ lệ yếu kém còn cao: chiếm 37%
Từ thực tế trên và bản thân tôi là một giáo viên dạy bộ môn Tin học luôn suy nghĩ phải đưa ra những giải pháp như thế nào để các em nắm lí thuyết chắc hơn nhớ lâu hơn và vận dụng vào thực hành tốt hơn. Sau một thời gian suy nghĩ tiến hành thực nghiệm tôi đã thu được những kết quả rất tốt sau đây tôi xin đề ra một số giải pháp sử dụng các dụng cụ trực quan trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Tin học lớp 6.
3. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới
Việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào thực tiễn giảng dạy góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn Tin học của học sinh, giúp các em vừa ôn luyện được kiến thức cũ, phát hiện nội dung kiến thức mới. Từ đó các em lĩnh hội tri thức một cách nhẹ nhàng, hứng thú, say mê học tập, rèn cho học sinh óc tư duy sáng tạo nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung giới thiệu và giải quyết những vấn đề về “Các phương pháp dạy học trực quan ở môn tin học 6”
- Thời gian nghiên cứu:
Năm học: 2016 - 2017
- Đối tượng nghiên cứu:
- Môn Tin học lớp 6.
- Học sinh khối 6
V. Phương pháp nghiên cứu
- Tổng hợp điều tra về mức độ học sinh thích học, mức độ học sinh hiểu bài trong các giờ học có sử dụng dụng cụ trực quan
- Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài mới).
- Sử dụng bảng biểu đối chiếu.
- Kiểm tra chất lượng sau giờ học.
- Tận dụng tối đa các buổi học thực hành để các em được làm quen và luyện tập thật tốt các bài học lý thuyết.
- Hiện nay việc sử dụng các dụng cụ trực quan giúp cho giáo viên xây dựng tư liệu tương đối phong phú. Việc khai thác tư liệu có thể từ nhiều nguồn như: Khai thác thông tin tranh ảnh từ mạng Internet, từ sách báo tài liệu, tạp chí, băng hình, phim, các phần mềm,…
- Trao đổi, chia sẻ, rút kinh nghiệm
Do nhiều yếu tố nên phạm vi nghiên cứu và thực hiện là với môn Tin học tại 3 lớp 6A, 6B và 6C của trường THCS nơi tôi đang công tác trong năm học 2016 - 2017.
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TIN HỌC 6 BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC QUAN
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đặt trọng tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Chỉ có đổi mới căn bản phương pháp dạy học và chúng ta có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới hướng tới nền kinh tế tri thức.
Trong vài thập kỷ gần đây, đã có sự bùng nổ về thông tin hay gọi là thời đại thông tin. Cùng với việc sáng tạo ra hệ thống công cụ mới, con người cũng đã tập trung trí tuệ từng bước xây dựng ngành khoa học tương ứng để đáp ứng những yêu cầu khai thác tài nguyên thông tin. Trong bối cảnh đó, ngành Tin học được hình thành và phát triển thành một ngành khoa học độc lập với các nội dung, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu riêng và ngày càng có nhiều ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người.
Tin học được đưa vào nhà trường, vào giáo dục của nước ta nhằm giúp học sinh chúng ta theo kịp với trình độ phát triển của khu vực và thế giới. Đưa Tin học vào nhà trường nói chung và THCS nói riêng là một việc làm cần thiết để các em làm quen và tiếp cận với công nghệ khoa học tiên tiến.
Hoạt động nhận thức của con người là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Đối với học sinh lớp 6 khi học bộ môn Tin học này không thể làm trái với nguyên lý nhận thức đó. Việc dạy tin học trong nhà trường hiện nay đối với nước ta không phải là dễ, vì Tin học nó gắn liền với một công cụ riêng của môn học là máy tính. “Tin học là ngành khoa học nghiên cứu các quá trình có tính chất thuật toán nhằm mô tả biến đổi thông tin. Là khoa học dựa trên máy tính điện tử nghiên cứu cấu trúc, các tính chất chung của thông tin, các quy luật và phương pháp thu thập, lưu trữ, tìm kiếm thông tin, xử lý thông tin một cách tự động chính xác qua công cụ là máy tính điện tử”. Vậy làm thế nào để cho học sinh dễ hiểu một cách nhanh chóng chính xác và có kỹ năng thực hành là một nhiệm vụ rất quan trọng của người giáo viên dạy Tin học hiện nay.
Để giảng dạy tốt bộ môn Tin học có chất lượng, đạt kết cao thì người thầy giáo ngoài tin thông về bộ môn Tin học, cần nắm chắc phương pháp dạy học trực quan. Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học mà từ các hình ảnh, hoạt động trực quan đến tư duy trừu tượng hay còn gọi trực quan hoá thông tin thông qua các công cụ trực quan.
II/ CƠ SỞ THỰC TIỄN
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức hướng dẫn các hoạt động độc lập để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính nhưng khi soạn giáo án, giáo viên phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện trên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng tranh luận sôi nổi của học sinh. Để làm được điều này thì đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
Khó khăn lớn nhất hiện nay ở các trường học khi áp dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy vẫn là trang thiết bị nghe nhìn, phương tiện dạy học... còn nhiều thiếu thốn và bất cập. Trường THCS nơi tôi đang công tác tuy đã có được sự quan tâm hỗ trợ tích cực của các cấp lãnh đạo và phụ huynh học sinh nhưng đến nay vẫn chưa có phòng học bộ môn, phòng máy vi tính đã có số lượng tương đối đầy đủ nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu do sĩ số đông (30-35 HS/lớp). Để áp dụng phương pháp này vào dạy Tin học thì đòi hỏi phải có đèn chiếu (máy chiếu qua đầu - Over head) hay đèn chiếu (Projecter), máy vi tính đó là chưa kể đến việc nếu áp dụng đồng loạt thì mỗi lớp cũng đều phải được trang bị.
Tin học là một môn học đã được đưa vào giảng dạy tại trường THCS nơi tôi đang công tác nhưng so với các nơi khác cũng có thể nói là đang còn chậm, đặc biệt là các em lớp 6 cũng đã tiếp xúc với bộ môn này từ tiểu học mặc dù các em rất thích máy tính nhưng là để chơi các trò chơi trên máy chứ chưa ý thức được tầm quan trọng của bộ môn nên chất lượng học tập còn hạn chế. Đây là bộ môn đặc trưng muốn đạt chất lượng cao đòi hỏi các em phải tiếp xúc với máy tính nhiều nhưng thời lượng mỗi tuần chỉ có 2 tiết trên lớp thì các em chưa thể thực hành hết các kiến thức đã học mà nếu có thực hành hết thì sẽ chóng quên. Một thực tế khác là ý thức học tập của một số học sinh không cao, không hứng thú trong học tập, lười hoạt động, không tích cực tự giác, ý thức tự học, tự rèn luyện yếu.
III. THỰC TRẠNG KHI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
* Một số thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề tài:
1. Thuận lợi:
* Nhà trường:
- Tuy môn Tin học mới chỉ là môn học tự chọn nhưng nhà trường đã tạo điều kiện để học sinh có thể học từ khối lớp 6, tạo điều kiện sắm sửa máy móc, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học môn Tin học.
- Được sự ủng hộ của các cấp, các ngành, phụ huynh toàn trường hỗ trợ về cả tinh thầnh cũng như cơ sở vật chất cho nhà trường.
* Giáo viên:
Giáo viên được đào tạo vượt chuẩn chuyên ngành về tin học để đáp ứng yêu cầu cho dạy và học môn tin học trong bậc THCS.
* Học sinh:
Vì là môn học trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh vực mới nên học sinh rất hứng thú học, nhất là những tiết thực hành.
Đời sống kinh tế gia đình của một số em học sinh ở nhà đã có máy vi tính nên cũng có những thuận lợi nhất định đối với môn học.
2. Khó khăn:
* Nhà trường:
Nhà trường đã có một phòng máy vi tính để cho học sinh học nhưng vẫn còn hạn chế về số lượng cũng như chất lượng, mỗi ca thực hành có tới 3 em ngồi cùng một máy nên các em không có nhiều thời gian để thực hành làm bài tập một cách đầy đủ. Hơn nữa nhiều máy cấu hình máy đã cũ, chất lượng không còn tốt nên hay hỏng hóc, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của học sinh.
* Giáo viên:
Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc THCS nên chương trình và sự phân phối chương trình bước đầu chưa có sự thống nhất và đang hoàn chỉnh. Hơn nữa khi thực hành, các máy móc chất lượng kém thường gặp sự cố, trục trặc dẫn đến học sinh thiếu máy, không thực hành được.
* Học sinh:
Đa số các em học sinh chỉ được tiếp xúc với máy vi tính ở trường là chủ yếu, do đó sự tìm tòi và khám phá máy vi tính với các em còn hạn chế, nên việc học tập của học sinh vẫn còn mang tính chậm chạp.
IV. MÔ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
1. Các biện pháp tiến hành:
1.1. Biện pháp 1: Trực quan hoá thông tin dạy học.
Trực quan hoá thông tin dạy học là một quá trình thông qua đó người học tri giác các tài liệu học tập dưới dạng các biểu trưng hình ảnh, âm thanh, mô hình, vật thật... với sự hỗ trợ của dụng cụ trực quan.
Dụng cụ trực quan được sử dụng trong môi trường học tập như trong dạy học, giáo dục qua mạng dựa trên cơ sở máy tính... dụng cụ trực quan có thể được sử dụng hiệu quả để giảng dạy các sự kiện, các chỉ dẫn, các quá trình và các khái niệm trừu tượng mà chúng thường khó nhớ, khó hiểu. Các mục tiêu dạy học có thể thực hiện tốt nếu biết phát huy thông qua công cụ trực quan.
Có thể nói dụng cụ trực quan có nhiều thuận lợi hơn hẳn so với dạy học bằng ngôn ngữ: Chứa nhiều thông tin và tổ chức thuận lợi các thông tin trong cùng một vị trí, làm đơn giản các khái niệm, làm sáng tỏ các chi tiết của một khái niệm dựa trên ngôn ngữ trừu tượng. Đặc biệt là tranh ảnh trực quan làm tăng khả năng tiếp nhận và ghi nhớ trong học tập đây là một trong những mục tiêu hàng đầu của giáo dục.
Từ những ưu điểm trên, tôi nhận thấy nếu áp dụng vào dạy học nhờ dụng cụ trực quan là đèn chiếu, tranh ảnh, biểu tượng.... vào dạy Tin học có hiệu quả rất cao.
Trước khi sử dụng dụng cụ trực quan cho một bài học thì trước hết giáo viên cần xác định bài nào cần dụng cụ trực quan và những dụng cụ trực quan đó là gì phục vụ cho những đơn vị kiến thức nào trong bài học.
Tiếp đến là công tác chuẩn bị với dụng cụ trực quan.
Ví dụ dạy bài: “Máy tính và phần mềm máy tính” cần chuẩn bị những đồ dùng trực quan khi giới thiệu cấu trúc chung của máy tính điển tử như: bộ xử lí trung tâm (CPU), thanh RAM, các ổ đĩa các thiết bị lưu giữ thông tin như USB, đĩa mềm, đĩa CD, DVD... hay hình ảnh của một số loại máy vi tính trong thực tế bằng cách chụp bởi tranh ảnh hoặc các dụng cụ trực quan thiết thực như thế HS mới nhớ lâu và thấy trong thực tế có thể gọi tên dụng cụ trực quan chính xác.
Đèn chiếu tương đối dễ sử dụng và việc chuẩn bị cho việc dạy học với đèn chiếu tương đối dễ dàng, ít tốn thời gian. Tuy nhiên để sử dụng đèn chiếu thì phải có sự chuẩn bị kiến thức và các nội dung kiến thức cần trình chiếu. Nội dung đưa lên máy chiếu phải rõ ràng chính xác và phải có máy vi tính.
Chẳng hạn: khi nói đến máy tính hoặc máy in thì ta đưa hình ảnh minh họa, bằng quan sát trực quan như thế học sinh sẽ ghi nhớ kiết thức tốt nhất.
Sau bài dạy tôi tiến hành kiểm tra nhận thức của học sinh bằng hình thức kiểm tra 15 phút. Kết quả thu được:
Lớp | Tổng số | Giỏi | Khá | TB | Yếu | Kém | |||||
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | ||
6A | 32 | 8 | 25 | 9 | 28.1 | 12 | 37.5 | 3 | 9.4 |
|
|
6B | 35 | 4 | 11.4 | 10 | 28.6 | 14 | 40 | 7 | 20 |
|
|
6C | 33 | 6 | 18.2 | 12 | 36.4 | 10 | 30.3 | 5 | 15.1 |
|
|
* Hiệu quả của biện pháp 1: Sau khi áp dụng một số ví dụ vào đề tài, số học sinh biết phân biệt các thiết bị của máy tính tăng lên rõ rệt.
Tỉ lệ khá giỏi đã được nâng lên so với chất lượng khảo sát đầu năm học: Tăng 26%
Tỉ lệ yếu giảm: 12 %
Tỉ lệ kém còn: 0%
Tuy nhiên một số học sinh vẫn chưa xác định đúng các vị trí thiết bị, .... Như vậy bước đầu việc vận dụng kiến thức, kĩ năng của các em vào làm bài tập thực hành đã có hiệu quả rõ rệt.
1.2. Biện pháp 2: Tạo những tác nhân kích thích trực quan thông qua biểu trưng ngôn ngữ, biểu trưng đồ họa, biểu trưng tranh ảnh.
Muốn sử dụng phương pháp dạy học này thành công thì việc đầu tiên người thầy phải làm là thiết kế các thông điệp trực quan đòi hỏi nhiều sức lực và trí lực nhưng lại là công việc đem lại nhiều lợi ích. Việc thiết kế các tài liệu dạy học trực quan mới có thể tạo nên sự thay đổi, và khi người học chú ý sẽ cho nhiều điều bổ ích. Người thiết kế phải quan tâm tới khía cạnh giảng dạy, tính trực giác và đặc biệt quan tâm tới những kĩ năng học tập của học sinh trong nghiên cứu và thực hành. Người giáo viên phải biết phân tích chọn lựa các loại hình trực quan sao cho phù hợp với nội dung bài học.
1.2.1 Dạy học trực quan bằng biểu trưng ngôn ngữ.
Biểu trưng ngôn ngữ được tạo ra từ chữ viết dưới dạng một từ đơn lẻ hoặc câu hoàn chỉnh dùng đặt tên đối tượng, định nghĩa, mô tả đối tượng.
Thường khi dạy các bài học lý thuyết tôi thường sử dụng loại biểu trưng trực quan bằng ngôn ngữ.
Ví dụ: Dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” giáo viên chiếu sơ đồ cấu trúc chung của máy tính điện tử lên màn hình rồi yêu cầu học sinh quan sát và cho biết máy tính điện tự gồm những phần nào. Sau đó giáo viên chỉ vào từng đối tượng trên sơ đồ và giới thiệu lần lượt các khái niệm của các thành phần trong cấu trúc máy tính.
Ví dụ dạy bài “Định dạng văn bản”, thì đưa lên màn hình các bước thực hiện định dạng Font như sau:
Bước 1. Chọn khối văn bản cần định dạng
Bước 2. Click Format \ Font
Bước 3. Hộp thọai Font xuất hiện chọn Font
+ Font: chọn phông chữ
+ Font Style:
Đăng ký thành công. Chúng tôi sẽ phản hồi hoặc liên hệ lại với bạn trong thời gian sớm nhất.