Đối tác
qctraiqctrai2qctrai3qctrai4
slide 7slide 8slide 9slide 10slide 10slide 10slide 10slide 10slide 1020slide 10slide 10slide 10slide 10slide 10slide3slide4 slide5slide 6
SKKN LOẠI A năm 2019.2020

Phương pháp tổ chức dạy học thí nghiệm thực hành nhằm phát huy tính tích cực của học sinh ở môn Sinh học 8

Phương pháp tổ chức dạy học thí nghiệm thực hành nhằm phát huy tính tích cực của học sinh ở  môn Sinh học 8
Phương pháp tổ chức dạy học thí nghiệm thực hành nhằm phát huy tính tích cực của học sinh ở môn Sinh học 8

PHẦN A. ĐẶT VẤN ĐỀ

I. Lý do chọn đề tài

1. Cơ sở lý luận

Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và chú trọng. Giáo dục là quốc sách hàng đầu vì thế việc triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục, dạy học theo chuẩn kiến thức - kỹ năng, đổi mới kiểm tra - đánh giá, ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.

Để đạt được điều này, người thầy đóng vai trò rất quan trọng. Thầy là người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, có lòng nhiệt tình và tâm huyết nghề nghiệp. Bên cạnh đó thầy phải biết vận dụng hợp lý các phương pháp dạy học với từng kiểu bài, từng nội dung kiến thức, đề ra những biện pháp tích cực nhằm giúp học sinh vận dụng kiến thức lý thuyết vào thực hành và thực tiễn cuộc sống, định hướng cho học sinh có những tri thức và kỹ năng vững chắc bước vào cuộc sống.

Chính vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh là một trong những chủ trương của Đảng và của ngành giáo dục hiện nay đòi hỏi mỗi giáo viên cần tăng cường, đa dạng hóa các phương pháp trong mỗi tiết dạy.

2. Cơ sở thực tiễn

Sinh học là môn học khoa học thực nghiệm, kiến thức Sinh học được hình thành chủ yếu bằng phương pháp quan sát, mô tả, tìm tòi thực nghiệm …. Do đó, dạy học Sinh học không chỉ có tranh ảnh, mô hình, vật mẫu, mà còn phải tiến hành các thí nghiệm và thực hành nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh. Nhưng với đa số các em học sinh, việc tiến hành thí nghiệm, thực hành quan sát hay tìm tư liệu viết báo cáo được xem là không cần thiết, các em nghĩ rằng chỉ cần học thuộc những gì ghi nhận trên lớp là xong. Tiến hành thí nghiệm, tìm tư liệu vừa mất thời gian, vừa không được gì nên việc thực hiện các yêu cầu của giáo viên về chuẩn bị các điều kiện cho thí nghiệm hay thực hành quan sát... thì nhiều học sinh có thói quen tiến hành một cách qua loa, chiếu lệ như: Thao tác không như hướng dẫn, điều kiện thí nghiệm không đúng, vật mẫu không đạt yêu cầu, tư liệu không theo chủ đề, các bài báo cáo, thu hoạch viết sơ sài... Nói chung, các em chưa thật sự tích cực và chưa có kỹ năng hoạt động hợp tác theo nhóm, chưa quen với việc tự mình làm chủ, tiến hành thực hành- thí nghiệm để tìm ra kiến thức mới, khắc sâu kiến thức đã học.

Để dạy thành công một bài thực hành là vấn đề rất khó, nếu thực hành không thành công sẽ không đạt được yêu cầu bài học. Sự thành công của tiết dạy phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Vậy làm thế nào để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn đem lại niềm vui và hứng thú học tập cho học sinh?

3. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay chưa có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu một cách hiệu quả về phương pháp dạy bài thực hành, thí nghiệm ở môn Sinh học 8 . Do vậy giáo viên cũng gặp rất nhiều khó khăn khi dạy bài thực hành, dẫn đến kỹ năng làm bài thực hành của học sinh còn kém nên khi học bài thực hành không thấy hào hứng, nhanh bị chán nản. Vì vậy, kết quả học tập chưa cao, nhiều học sinh chưa có phương pháp học nên ngại học, ngại nghiên cứu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển toàn diện về kiến thức lẫn kĩ năng của học sinh.

Đó là cơ sở thôi thúc tôi quan tâm, lựa chọn nghiên cứu đề tài: “ Phương pháp dạy học thí nghiệm thực hành nhằm phát huy tính tích cực của học sinh ở bộ môn Sinh học 8 ”

II. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

1. Đối tượng nghiên cứu

 Phương pháp dạy học thí nghiệm thực hành nhằm phát huy tính tích cực của học sinh ở môn Sinh học 8

2. Phạm vi nghiên cứu

Học sinh khối 8 trường THCS

III. Mục đích nghiên cứu

Qua nghiên cứu tôi muốn nêu lên vấn đề làm thế nào để tổ chức tiết dạy thí nghiệm, thực hành đạt kết quả cao, giúp học sinh hứng thú trong từng giờ học, từng bài học và chiếm lĩnh tri thức tốt nhất.

IV. Phương pháp nghiên cứu

 Phương pháp quan sát khoa học; Phương pháp điều tra; Phương pháp thực nghiệm khoa học; Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm; Phương pháp đàm thoại; Phương pháp giả thuyết; Phương pháp bàn tay nặn bột.

V. Thời gian nghiên cứu

Từ tháng 8/ 2018 đến tháng 12/2019

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                          
     

PHẦN B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. Tình hình thực tế khi thực hiện đề tài

1. Thuận lợi

Trường trung học cơ sở của tôi là một ngôi trường khang trang. Được sự quan tâm của Ủy ban nhân dân huyện, Phòng Giáo dục huyện, Ban giám hiệu nhà trường nên trường trung học cơ sở của tôi có phòng thực hành bộ môn Sinh học, phòng bộ môn có đủ trang thiết bị để phục vụ giảng dạy và học tập.

Học sinh trường THCS nơi tôi công tác có bề dày truyền thống về lòng hiếu học, học sinh ham học, tìm hiểu các kiến thức và thích nghiên cứu khoa học.

2. Khó khăn

Từ thực tế điều kiện kinh tế và đặc điểm của một xã vùng quê, điều này dẫn tới học sinh cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc học tiết thực hành. Giáo viên cũng gặp khó khăn trong giảng dạy. Nguyên nhân dẫn đến kết quả của các bài thực hành chưa đạt được đến mức mong muốn là do:

+ Một số học sinh cũng chưa tích cực tham gia các bài thực hành, thí nghiệm, khi làm thực hành thí nghiệm vẫn còn rụt rè.

+ Kinh phí đầu tư cho tiết thực hành còn hạn chế nên chưa chuẩn bị tốt các mẫu vật theo yêu cầu.

Mặt khác môn Sinh học là một khoa học thực nghiệm, môn khoa học mở, luôn luôn mới và rất trừu tượng.

II. Khảo sát thực tế

1. Hình thức kiểm tra

Trước khi thực hiện đề tài này tôi tiến hành kiểm tra thực trạng của  học sinh khối 8, học thực hành - thí nghiệm bằng phiếu điều tra.

2. Kết quả

           Lần khảo sát đầu tiên tôi cho học sinh khối 8 toàn trường năm học 2018 - 2019 (Nội dung phiếu phần phụ lục)

Tôi thu thập trong đó:

Có 20 em cho rằng hào hứng, rất thích học chiếm 20,6%.

Có 33 em cho rằng bình thường chiếm 47,4%.

Có 25 em cho rằng nhàm chán, không hứng thú chiếm 26%.

Có 7 em có ý kiến khác chiếm 6%.

          Lần tiếp theo tôi dạy một số tiết thí nghiệm thực hành theo phương pháp cũ, sau đó tiến hành kiểm tra lại kiến thức nắm được của học sinh qua bài học. tôi thu được kết quả sau:

Tổng số HS lớp 8 năm học

2018  - 2019

 

 

Điểm Giỏi

 

 

Điểm Khá

 

ĐiểmTrung bình

 

Điểm Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

85

15

19,8

33

37,3

30

23,8

7

19,1

 

III. Phương pháp dạy học thí nghiệm thực hành nhằm phát huy tính tích cực của học sinh ở môn Sinh học 8

1. Vai trò của thí nghiệm thực hành trong giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực của học sinh

         Thực hành - thí nghiệm là phương pháp quan trọng nhất để tổ chức học sinh nghiên cứu, giải thích các hiện tượng Sinh học, là mô hình đại diện cho hiện thực khách quan, là cơ sở xuất phát cho quá trình nhận thức của học sinh,  giúp học sinh đi sâu tìm hiểu bản chất các hiện tượng, các quá trình sinh học, có vai trò kiểm chứng lý thuyết, củng cố lý thuyết là cầu nối quan trọng trong quá trình nhận thức của học sinh, giúp học sinh đi từ tư duy trừu tượng đến thực tại khách quan, bước đầu hình thành ở các em tư duy logic.

          Như vậy thí nghiệm, thực nghiệm khoa học giữ vai trò hết sức quan trọng trong quá trình nhận thức khoa học và thực tiễn.

Để hiểu rõ hơn tác dụng của thí nghiệm đối với tư duy của học sinh. Sau đây tôi xin giới thiệu kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lí học sư phạm, để qua đấy giáo viên chúng ta nên sử dụng phương pháp thí nghiệm, thực hành tối đa có thể vào quá trình học tập:

Tỉ lệ lưu giữ trong trí nhớ

 

    Vậy thông qua thí nghiệm Sinh học, học sinh nắm kiến thức một cách hứng thú, vững chắc và sâu sắc.

2. Bản chất của phương pháp thực hành - thí nghiệm

         Thực hành - thí nghiệm theo lôgíc nghiên cứu thì bản thân nó là nguồn tri thức mới cho học sinh, nó là điểm xuất phát cho quá trình tìm tòi của học sinh để đi đến việc hình thành kiến thức mới.

         Trong bài thực hành thì thí nghiệm lại là nguồn kiến thức vừa có vai trò xây dựng cái mới, vừa có vai trò củng cố, hoàn thiện và kiểm chứng, chứng minh một vấn đề đã được nhắc đến.

Như vậy với phương pháp này, học sinh ở vị trí của người nghiên cứu, chủ động hành động giành tri thức nên sự lĩnh hội kiến thức được sâu sắc hơn,

đầy đủ hơn.

 Thực hành - thí nghiệm nghiên cứu gồm các bước sau:

Giới thiệu mục đích, yêu cầu thực hành - thí nghiệm

 Tổ chức phân tích các điều kiện thí nghiệm.

 Giới thiệu các bước, các thao tác tiến hành thí nghiệm.

 Giới thiệu các sự kiện, hiện tượng xảy ra trong quá trình thí nghiệm.

 Thiết lập các mối quan hệ nhân - quả từ kết quả thí nghiệm.

            Để học sinh nắm được mục đích, điều kiện thực hành - thí nghiệm, giáo viên nên giới thiệu trước cho học sinh, cách tốt nhất là để học sinh tự xác định.

Việc rút ra kết luận, báo cáo thu hoạch là giai đoạn cuối cùng, quan trọng nhất trong quá trình thực hành - thí nghiệm tức là sau khi học sinh giải thích các hiện tượng, quá trình học xảy ra một cách phù hợp lôgic đáp ứng mục đích, yêu cầu đề ra ban đầu thì vấn đề đã được giải quyết.

      3. Những yêu cầu sư phạm của thực hành - thí nghiệm

      3.1 Yêu cầu đối với giáo viên

          Khi tiến hành biểu diễn thí nghiệm - thực hành thì giáo viên phải đặt vấn đề rõ ràng, giải thích cụ thể mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của thí nghiệm.

Các câu hỏi và bài tập này phải được giáo viên nêu ra từ trước khi tiến hành, thực hành - thí nghiệm và ghi lên bảng hoặc vào phiếu học tập. Yêu cầu của các câu hỏi này phải phù hợp với chủ đề của bài học để khi tìm lời giải đáp  giúp học sinh  nắm vững, hiểu sâu bản chất  của hiện tượng.

          Sau khi thực hành - thí nghiệm cần tổ chức cho học sinh thảo luận theo hệ thống câu hỏi và kết quả quan sát thu được sau khi thực hành - thí nghiệm. Sau khi thảo luận nhất thiết giáo viên phải nhận xét, đánh giá và kết luận kiến thức chuẩn để học sinh điều chỉnh nhận thức nếu cần.

     Như vậy, trong trường hợp nội dung bài đơn giản thì giáo viên dùng lời nói giới thiệu trước, sau đó biểu diễn thí nghiệm minh hoạ hoặc cho học sinh tự làm  thí nghiệm - quan sát để nhận biết kiến thức.

     Còn đối với những  hiện tượng phức tạp thì nên tổ chức cho học sinh quan sát  thực hành - thí nghiệm theo logic nghiên cứu, như vậy sẽ có hiệu quả rèn luyện trí thông minh, tư duy sáng tạo để hình thành kĩ năng, kĩ xảo do học sinh phải sử dụng các biện pháp trí tuệ, học sinh sẽ lĩnh hội tri thức một cách chủ động, sâu sắc hơn.

           Trong phương pháp này lời nói của giáo viên có 3 chức năng:

            Hướng dẫn học sinh quan sát để nắm vững những giai đoạn chính của hiện tượng.

            Hướng dẫn học sinh chủ động kiến thức lí thuyết đã học để giải thích, kết luận hiện tượng quan sát được trong bài thực hành.

            Trên cơ sở thu được kết quả quan sát thí nghiệm, học sinh tự rút ra kết luận.

           Đảm bảo an toàn cho giáo viên và học sinh.

 Yêu cầu an toàn là yêu cầu tiên quyết đối với giáo viên khi làm thí nghiệm trên lớp học. Để đảm bảo an toàn trong thí nghiệm giáo viên phải xác định ý thức trách nhiệm về bảo đảm an toàn sức khỏe, tính mạng cho tập thể và từng cá nhân của học sinh trong lớp học.

Bảo đảm kết quả và tính khoa học của thí nghiệm

Kết quả tốt của thí nghiệm có liên quan rất lớn đến chất lượng dạy học và củng cố lòng tin khoa học của học sinh, sự biểu diễn thí nghiệm khéo léo của giáo viên còn là mẫu mực cho học sinh.

Đảm bảo tính trực quan

Đảm bảo tính trực quan là một trong những yêu cầu cơ bản của thí nghiệm. Để đảm bảo tính trực quan giáo viên phải khéo léo bố trí các dụng cụ thí nghiệm có kích thước hình dáng phù hợp, dùng lượng hóa chất hợp lí để cả lớp quan sát được tốt nhất.

Ngoài những yêu cầu trên về mặt phương pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả của các thí nghiệm biểu diễn chúng ta cần chú ý một số điểm cơ bản:

Lựa chọn số thí nghiệm trong mỗi bài, mỗi tiết học vừa phải, chọn những thí nghiệm tiêu biểu phục vụ trọng tâm của bài học.

Sử dụng các thí nghiệm gọn nhẹ, đơn giản, cố gắng tận dụng những dụng cụ.

thay thế nhưng vẫn đảm bảo tính khoa học, sư phạm, thẩm mỹ.

Phối hợp lời nói của giáo viên với thí nghiệm biểu diễn có ý nghĩa rất lớn.

3.2. Yêu cầu đối với học sinh

    Hình thức thí nghiệm do học sinh tự làm khi hoàn thiện thí nghiệm nhằm minh họa, ôn tập, củng cố kiến thức đã học và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo được gọi là thí nghiệm thực hành.

    Một trong những điều kiện giúp thực hiện thành công thí nghiệm thực hành là học sinh đã chuẩn bị trước về mục đích của thí nghiệm, học sinh cần làm gì và làm như thế nào, giải thích các hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm, rút ra những kết luận đúng đắn. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh cần ôn lại những nội dung cần thiết trong sách giáo khoa hoặc đọc trước các tài liệu hướng dẫn thí nghiệm.

    Khi làm thí nghiệm thực hành học sinh phải có thái độ nghiêm túc và có lòng say mê khoa học, có tinh thần trách nhiệm với bài học.

   Học sinh làm thí nghiệm theo các nhóm và phân chia trách nhiệm cho mỗi thành viên trong nhóm.

     4. Các bước tiến hành khi dạy tiết thực hành thí nghiệm

Bước 1: Đặt vấn đề

GV thông báo đề tài nghiên cứu, nêu cụ thể đối tượng thí nghiệm, thời gian thí nghiệm mục đích yêu cầu và các yêu cầu cần đạt được qua thí nghiệm nghiên cứu để kích thích sự tự giác và hứng thú ban đầu của người học.

Bước 2: Phát hiện vấn đề

Nêu mục đích cụ thể hơn, vạch rõ những thành phần cấu thành chủ đề nghiên cứu để HS có sự định hướng cụ thể.

Bước 3: Đề xuất giả thuyết, dự đoán các phương án giải quyết, vạch kế

             hoạch giải quyết.

Yêu cầu các em làm việc theo tổ, nhóm, nắm các bước tiến hành thí nghiệm, làm thí nghiệm và mang vào lớp các thí nghiệm đã thực hiện.

GV hướng dẫn, giới thiệu các nội dung tham khảo, các địa chỉ trên internet...để học sinh tham khảo, tìm hiểu hoàn thành đề tài báo cáo hoặc tự tiến hành thí nghiệm ở nhà.

Bước 4: Thực hiện kế hoạch giải quyết.

Học sinh chuẩn bị tốt thí nghiệm, tự mình thực hiện thí nghiệm, đề tài nghiên cứu (cá nhân hoặc nhóm) là cơ sở để hình thành và rèn luyện các kỹ năng nghiên cứu khoa học cho các em, tạo điều kiện cần thiết cho học sinh khả năng tự giác học tập,  biết tự tìm hiểu, phát hiện kiến thức

Bước 5: Đánh giá việc thực hiện kế hoạch.

Giáo viên cần khuyến khích, động viên, kích thích óc tìm tòi, quan sát, tạo hứng thú trong việc đánh giá thực hiện kế hoạch.

Học sinh hoặc nhóm làm được thí nghiệm tốt, có bài báo cáo hay sát thực tế, giáo viên cần khen ngợi và động viên tinh thần tham gia tích cực của các em hay nhóm bằng cách ghi điểm cộng. Nhóm hay học sinh chưa làm tốt (Cách làm ,đối tượng hay thời gian tiến hành chưa đúng...). GV cần giúp học sinh phát huy tính chủ động tích cực trong giờ học để các em tự tin hơn, hứng thú hơn trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học sinh học thực nghiệm.

Bước 6: Giáo viên nhận xét, bổ sung, hoàn thiện.

      5. Một số lưu ý khi thực hiện các tiết thực hành nhằm đạt hiệu quả cao

Nét nổi bật dễ nhận thấy của tiết thực hành theo phương pháp tích cực là hoạt động của học sinh chiếm tỉ lệ cao so với hoạt động của giáo viên về mặt thời lượng cũng như cường độ làm việc. Nhưng thực ra, để có một tiết thực hành đạt hiệu quả cao đòi hỏi người giáo viên chú ý:

Phần chuẩn bị: Giáo viên phải chuẩn bị những mẫu vật chuẩn, những mẫu vật có sẵn trong tự nhiên hoặc phải liên hệ trước để có được những mẫu vật đạt yêu cầu mong muốn.Về phía học sinh cũng cần chuẩn bị theo mẫu vật để phong phú hơn trong tiết thực hành.

Dụng cụ thực hành như bộ đồ mổ, kính lúp, kính hiển vi, mô hình, khay mổ, thau, chậu, khăn lau…chuẩn bị đầy đủ, cẩn thận.

Đến giờ thực hành, trước khi vào giờ giáo viên cần kiểm tra sự chuẩn bị mẫu vật của các nhóm, những mẫu vật nào đạt tiêu chuẩn, không đạt tiêu chuẩn, mẫu vật nào lạ để thuận tiện trong giờ thực hành.

Trong khi thực hành: giáo viên cần nêu mục tiêu của tiết thực hành hay của từng hoạt động để học sinh thực hành đúng mục tiêu không đi lệch hướng.

Đối với nội dung thực hành khó, ngoài việc hướng dẫn, giáo viên cần làm mẫu cho học sinh quan sát trước sau đó các nhóm mới thực hành đảm bảo yêu cầu đề ra.

        Trong phần tổng kết tiết thực hành: giáo viên cần cho đại diện một vài nhóm báo cáo kết quả thực hành của mình, các nhóm khác bổ sung và giáo viên đính chính những sai sót của học sinh.

        Giáo viên cần chú ý khâu vệ sinh cuối tiết thực hành: phân công các nhóm thu dọn mẫu vật đã thực hành có hóa chất cần thiết, tránh vứt bừa bãi gây ô nhiễm môi trường, những dụng cụ cần rửa sạch sẽ trước khi chuyển về phòng thiết bị.

6. Phương pháp tổ chức dạy học thí nghiệm thực hành nhằm phát huy tính tích cực của học sinh ở bộ môn Sinh học 8

6.1. Phân loại theo mục đích sử dụng

Theo mục đích sử dụng có thể chia các thí nghiệm trong chương trình phổ thông thành các loại

6.1.1. Thí nghiệm được sử dụng để hình thành kết luận khoa học.

Có hai cách khai thác thông tin ở thí nghiệm:

Cách thứ nhất: Giáo viên trực tiếp làm thí nghiệm (học sinh chỉ tham gia vài hoạt động nhỏ có tính chất hỗ trợ thầy) để đem lại thông tin cho trò.

Cách thứ hai: Trò làm thí nghiệm dưới sự chỉ đạo của thầy. Cách này gọi là thí nghiệm thực hành, thường được tổ chức tại phòng thí nghiệm, học sinh làm theo sự hướng dẫn của giáo viên hoặc qua các bài hướng dẫn để tự khai thác kiến thức, củng cố kiến thức đã học hoặc kiểm tra

Ví dụ: Tiết 8 – bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương.

Khi dạy phần III. Thành phần hóa học và tính chất của xương.

 Giáo viên sẽ cho học sinh hoạt động nhóm

 Giáo viên: phát cho mỗi nhóm dụng cụ thí nghiệm. Sau đó hướng dẫn trước lớp cách làm từng thí nghiệm...

 Học sinh: nghe hướng dẫn

TN1: …

 Quan sát có hiện tượng gì xảy ra?

 Lấy thử xương đùi ếch đã ngâm trong axit rửa trong cốc nước sạch, kiểm tra xương bằng cách uốn xem xương cứng hay mềm?

 

TN2: …

 Bóp nhẹ một phần xương đã đốt rồi nhận xét?

 Phần còn lại cho vào ống nghiệm đựng HCl 10%. Quan sát có hiện tượng gì xảy ra không?

 Gv: Yêu cầu các nhóm tiến hành và điền kết quả vào phiếu học tập

 Gv vấn đáp các nhóm, cùng các nhóm hướng dẫn các nhóm tự tìm ra kiến thức?

(Gv mở rộng liên môn kiến thức môn hóa học)

 Qua hai TN trên học sinh sẽ tự vạch ra được bản chất của hiện tượng và rút ra kết luận là gì?

 Giáo viên giúp học sinh chuẩn hóa kiến thức.

6.1.2. Thí nghiệm được sử dụng để rèn luyện kĩ năng thiết kế thí nghiệm

Trong trường hợp này, thí nghiệm là nguồn cung cấp kiến thức quy trình, rèn luyện kĩ năng. Mục đích chính của việc thực hiện thí nghiệm là rèn luyện kĩ năng, do đó trong quá trình học tập cần làm sáng tỏ các câu hỏi sau:

Hiện tượng đó là gì? Có thể quan sát điều đó được không?

Cần những thiết bị gì?

Làm thế nào để quan sát được?

Kết quả thí nghiệm như thế nào thì đạt được mục đích?

Thao tác như thế nào là đúng?

Cái gì sẽ ảnh hưởng đến kết quả thí nghiệm?

Các thí nghiệm sẽ được lặp đi lặp lại và các câu hỏi trên liên tục được đặt ra sẽ làm cho học sinh quen với tác phong nghiên cứu thực nghiệm, nắm được quy trình làm việc theo kiểu tìm tòi, khám phá. Tùy sự tham gia của HS và thí nghiệm nhiều hay ít mà kĩ năng của học sinh được rèn luyện nhiều hay ít.

6.2. Phân loại theo chủ thể thí nghiệm

Theo chủ thể thực hiện thí nghiệm có thể chia các thí nghiệm trong chương trình phổ thông cơ sở thành các loại như sau:

6.2.1. Thí nghiệm biểu diễn của giáo viên

Vai trò của thí nghiệm trong giờ sinh học có thể khác nhau, có thể dùng để minh họa các kiến thức do giáo viên trình bày có thể là nguồn kiến thức mà học sinh tiếp thu dưới sự hướng dẫn của giáo viên trong quá trình quan sát thí nghiệm

Ví dụ: Tiết – Bài 44: Thực hành: Tìm hiểu chức năng (liên quan đến cấu tạo) của tủy sống.

Khi dạy bài thực hành này ở thí nghiệm 4,5,6,7 giáo viên sẽ biểu diễn tiến hành thí nghiệm rồi cho học sinh quan sát và ghi lại kết quả thí nghiệm vào bảng phiếu học tập (Giáo viên lưu ý trước khi biểu diễn thí nghiệm sẽ cho học sinh dự đoán trước kết quả)

 Sau khi học sinh rút ra kết luận hay kết quả thí nghiệm từ hoạt động biểu diễn của giáo viên thì giáo viên sẽ giúp học sinh chuẩn hóa kiến thức.

 

Thí nghiệm

Điều kiện

thí nghiệm

Cường độ và vị trí

kích thích

Kết quả

quan sát

4

Cắt ngang tủy (ở đôi dây thần kinh da giữa lưng 1 và 2)

Kích thích rất mạnh chi sau bằng HCl 3%

 

5

Kích thích rất mạnh chi trước bằng HCl 3%

 

6

 

Hủy tủy ở trên vết cắt ngang

Kích thích rất mạnh chi trước bằng HCl 3%

 

7

Kích thích rất mạnh chi sau bằng HCl 3%

 

 

 

6.2.2. Thí nghiệm thực hành của học sinh

Tùy theo mục đích của việc sử dụng trong quá trình học tập mà thí nghiệm của học sinh được chia thành 3 loại cơ bản sau:

         Thí nghiệm học tập: là thí nghiệm được học sinh tiến hành để nghiên cứu tài liệu mới, có thể do từng học sinh hoặc nhóm học sinh tiến hành.

Ví dụ: Tiết 6- Bài 5: Thực hành quan sát tế bào và mô

Khi dạy bài thực hành này giáo viên sẽ cho học sinh làm từng nhóm (4 học sinh làm một nhóm).

       Trước khi tiến hành giáo viên cho học sinh trả lời một số câu hỏi chuẩn bị

1. Có những loại mô nào?

2. Trình bày cách quan sát tiêu bản bằng kính hiển vi?

Học sinh vẽ hình quan sát được, chú thích

Nhận xét kết quả và rút ra kết luận

 Nhận xét về đặc điểm tế bào mô cơ vân?

Tế bào mô biểu bì, mô liên kết, mô cơ có đặc điểm gì khác nhau?

          Để tiết thực hành đạt hiệu quả giáo viên cần lưu ý các nhóm khi tiến hành:

Đậy la men cần đậy từ từ để tránh tạo ra bọt khí làm cho việc

quan sát tiêu bản gặp khó khăn

Phân biệt các thành phần chính của tế bào: màng, chất tế bào, vân ngang, nhân. Vẽ hình cân đối, ghi các chú thích

 

 

 

 

 

Thí nghiệm ngoại khóa: Thường được thực hiện ngoài lớp hoặc trong các buổi hội vui sinh học, thí nghiệm ngoại khóa thực hành quan sát ở nhà. Dạng thí nghiệm này giúp học sinh hứng thú học tập, nâng cao vai trò giáo dục kĩ thuật tổng hợp, gắn liền với kiến thức đã học với thực tế cuộc sống. Đối với dạng thí nghiệm này giáo viên cần hướng dẫn đề tài, đặt ra mục đích yêu cầu, hướng dẫn học sinh tự tìm kiếm dụng cụ, hóa chất…

 IV. Hiệu quả

Kết quả sau khi thực hiện đề tài ở cuối học kì 1 năm học 2019 - 2020

Có 67 em cho rằng hào hứng, rất thích học chiếm 67,7%.

Có 32 em cho rằng bình thường chiếm 32,3%.

Tiến hành kiểm tra lại kiến thức nắm được của học sinh qua bài học tôi thu được kết quả sau:

 

Tổng số

HS lớp 8 cuối học kì 1

 năm học

2019 - 2020

Điểm Giỏi

Điểm Khá

ĐiểmTrung bình

Điểm Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

99

45

45,45

40

40,4 

9

9,1

5

5,05

 

 

  • Đối với giáo viên

+ Không mất quá nhiều thời gian chuẩn bị, thời gian của tiết dạy mà giáo viên và học sinh vẫn đảm bảo được nội dung kiến thức bài học, ôn tập và củng cố kiến thức một cách hiệu quả.

+ Tạo được tình huống có vấn đề rất sinh động và hấp dẫn để giáo viên khắc sâu kiến thức, học sinh tích cực tham gia vào học tập.

 -   Đối với học sinh

Hầu hết các em được kích thích hứng thú học tập, chủ động tham gia thực hành - thí nghiệm và giải thích thảo luận. Kết quả số em viết hoàn thiện báo cáo thu hoạch và giải thích một cách tương đối sâu sắc  các vấn đề xảy ra là trên 85%. Các em đều rất hồ hởi khi có giờ thực hành vì các em được làm chủ, được độc lập nghiên cứu, tranh luận và bảo vệ vấn đề mình tranh luận.

V. Bài học kinh nghiệm đối với giáo viên và học sinh

1. Đối với giáo viên

Để dạy tốt bài thực hành - thí nghiệm giáo viên cần:

Chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng, mẫu vật, thiết bị thí nghiệm...cho các nhóm (nếu mẫu vật dễ kiếm, dễ tìm thì giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị theo nhóm).

 Các bài thực hành khó thì giáo viên cần tiến hành thí nghiệm trước ở nhà, để đảm bảo cho thí nghiệm thành công ở trên lớp.

 Giáo viên cần chia các nhóm khi cho học sinh thực hành - thí nghiệm.

 Trước khi dạy bài thực hành - thí nghiệm giáo viên cần đặt tình huống có vấn đề qua đó sẽ kích thích khả năng tư duy của các em, hình thành ở các em là muốn khám phá kiến thức để giải quyết vấn đề mà giáo viên đặt ra.

 Giáo viên cần chia lớp thành các nhóm nhỏ, thường là 3 - 4 nhóm, và phân công việc cụ thể cho từng thành viên trong nhóm.

 Đối với bài thực hành khó : giáo viên có thể cho học sinh quan sát video, hướng dẫn tổ chức các em một cách khoa học và phải đảm bảo tư duy logic.

 Tổ chức quá trình thực hành - thí nghiệm trong quá trình dạy học theo phương pháp "bàn tay nặn bột"

 Đối với bài thực hành mà làm nhiều thí nghiệm thì giáo viên có thể phân chia nhiệm vụ cho các nhóm thực hiện thực hiện các thí nghiệm khác nhau, sau đó các nhóm nhận xét cho nhau, dưới sự hướng dẫn của giáo viên.

 Viết báo cáo thu hoạch sau khi làm bài thực hành.

2. Đối với học sinh.

 Đọc trước tài liệu, tranh ảnh... và xem video có liên quan đến nội dung bài thực hành.

Làm bài thực hành - thí nghiệm với thái độ nghiêm túc, cẩn thận, biết quý trọng thời gian khi làm thực hành - thí nghiệm.

 

 

 

 

 

                        PHẦN C: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận               

 Tôi nghiên cứu vấn đề này có thể nói đây chỉ là một sáng kiến, kinh nghiệm nhỏ của riêng tôi, nhưng tôi rất mong muốn được bạn  bè, đồng nghiệp tham khảo, đóng góp, xây dựng để có một phương pháp dạy học tốt nhất, đặc biệt đối với môn Sinh học và các bài thực hành trong chương trình Sinh học.

 Đề tài này của tôi gắn liền với thực tiễn công tác giảng dạy ở trường trung học cơ sở. Nó góp phần khắc phục những khó khăn, yếu kém của học sinh trong quá trình học tập một tiết thực hành ở bộ môn Sinh học.

Trên thực tế trước khi nghiên cứu đề tài tôi có tìm hiểu, khảo sát và thống kê chất lượng học sinh như sau:

Bảng khảo sát trước khi thực hiện đề tài:

 

Tổng số HS lớp 8 năm học

2018  - 2019

 

 

Điểm Giỏi

 

 

Điểm Khá

 

ĐiểmTrung bình

 

Điểm Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

85

15

19,8

33

37,3

30

23,8

7

19,1

 

Qua thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi thấy phương pháp tổ chức dạy học thí nghiệm rất hiệu quả đối với đối tượng học sinh THCS, cụ thể

Bảng khảo sát sau khi thực hiện đề tài:

 

Tổng số

HS lớp 8 cuối học kì 1

 năm học

2019 - 2020

Điểm Giỏi

Điểm Khá

ĐiểmTrung bình

Điểm Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

99

45

45,45

40

40,4 

9

9,1

5

5,05

 

 

 Trên đây tôi đã trình bày xong đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Phương pháp tổ chức dạy học thí nghiệm thực hành nhằm phát huy tính tích cực của học sinh ở bộ môn sinh học 8”.  Tham gia viết sáng kiến kinh nghiệm, với tuổi đời và tay nghề  còn trẻ nên đề tài của tôi chắc chắn còn có phần thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành của  quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn chỉnh và vận dụng đạt hiệu quả cao trong quá trình giảng dạy.

Với đề tài này tôi hi vọng nó sẽ góp phần nâng cao phương pháp dạy và học của giáo viên và học sinh. Nó sẽ giúp ích cho những giáo viên say mê, nhiệt tình hết lòng với nghề giáo đi tìm phương pháp mới để truyền thụ cho học sinh thân yêu của chúng ta.

2. Khuyến nghị

           2.1. Về phía cha mẹ - học sinh

          Kiểm tra đôn đốc việc chuẩn bị bài, học bài của học sinh ở nhà.

          Tạo điều kiện và khuyến khích học sinh tích cực trong việc học bài thực hành.

           2.2. Về phía Ban giám hiệu nhà trường

           Hỗ trợ tích cực cho giáo viên trong việc áp dụng phương pháp dạy bài thực hành, quan tâm xây dựng vườn trường.

          Khuyến khích, động viên các giáo viên sử dụng công nghệ thông tin kết hợp phương pháp dạy học mới.

  2.3. Về phía phòng giáo dục và đào tạo

    Hỗ trợ thêm về phương diện thiết bị cho bộ môn nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác dạy học của giáo viên. 

   Thường xuyên tổ chức cho các giáo viên đi học chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là các chuyên đề về dạy tiết thực hành – thí nghiệm.

   

 

 

 

 

 

 

 

Hỗ trợ trực tuyến
Nhom ki thuat
Tư vấn trực tuyến
Hỗ trợ trực tuyến
zalo
0386097929
Hỗ trợ Nội dung
0386097929
Tin mới
Thống kê truy cập
Quảng cáo
quảng cáo phải 1quảng cáo phai 2quangcaophai3quancaophai4qcphai5qcphai6
qctruottrai
qctruotphai
^ Về đầu trang