Đối tác
qctraiqctrai2qctrai3qctrai4
slide 7slide 8slide 9slide 10slide 10slide 10slide 10slide 10slide 1020slide 10slide 10slide 10slide 10slide 10slide3slide4 slide5slide 6
Sáng kiến kinh nghiệm

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ 7

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ 7
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ 7

MỤC LỤC

                                                       Trang

A. PHẦN MỞ ĐẦU.

I. Lí do chọn đề tài.....................................................................................

2

II. Mục đích nghiên cứu.............................................................................

3

III. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................

3

IV. Đối tượng khảo sát...............................................................................

3

V. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu..........................................................

3

VI. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................

4

B. PHẦN NỘI DUNG.

 

I. Cơ sở lí luận...........................................................................................

4

II. Cơ sở thực tiễn .....................................................................................

5

III. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.............................................................

5

IV. Nội dung nghiên cứu..........................................................................

7

V. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm...................................................

26

VI. Những bài học kinh nghiệm................................................................

27

C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.

 

I. Kết luận..................................................................................................

28

II. Những khuyến nghị..............................................................................

29

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................

30

 

 

 

 

 

ĐỀ TÀI:

                 MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NHẰM NÂNG

     CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ 7

A. PHẦN MỞ ĐẦU.

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.                                                                                       

    Môn lịch sử trong nhà trường phổ thông nói chung ở lớp 7 nói riêng có chức năng và nhiệm vụ quan trọng trong việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Không chỉ ở nước ta mà ở các nước tiên tiến trên thế giới cũng chú trọng việc dạy môn lịch sử vì nó đào tạo con người có bản sắc dân tộc.

Bộ giáo dục coi trọng việc dạy và học bộ môn lịch sử. Đúng như Hồ Chí Minh đã khẳng định trong hai câu thơ mở đầu trong cuốn lịch sử nước ta:

“Dân ta phải biết sử ta                                                                                                       Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”

Nhưng trong thực tế cũng không ít người cho rằng, môn lịch sử là bộ môn học thuộc nặng về ghi nhớ những sự kiện năm tháng dài lê thê và xếp vào môn phụ, vì vậy ảnh hưởng không tốt vào mục tiêu đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ.

Trong quá trình giảng dạy và kết quả học tập của học sinh, tôi đã xác định lịch sử là một bộ môn khoa học có ưu thế hình thành nhân sinh quan cho học sinh, rèn tư duy sáng tạo cho các em, đặc biệt giúp cho học sinh từ hiểu biết lịch sử mà rút ra kinh nghiệm quý giá để xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

 Để đạt được kết quả trên thì việc áp dụng nhiều phương pháp giảng dạy vào tiết học lịch sử là rất quan trọng. Trong quá trình giảng dạy, ngoài các phương pháp thường dùng tôi chú trọng vào việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề, kể chuyện lịch sử, sử dụng kênh hình, phương pháp hoạt động nhóm, liên hệ với thực tế để giáo dục tư tưởng cho học sinh.

           Các câu chuyện lịch sử, tranh ảnh, hoạt động nhóm… không chỉ có tác dụng làm nổi bật nội dung, mà còn là nguồn tri thức không thể thiếu được trong bài học. Nếu những câu chuyện lịch sử, tranh ảnh và hoạt động nhóm được sử dụng tốt, sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ hai hệ thống tín hiệu với nhau:  tai nghe, mắt thấy, tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được mối liên hệ thần kinh tạm thời khá phong phú, phát huy đựơc năng lực chú ý quan sát, hứng thú của học sinh. Với tính ưu việt đó, vì vậy tôi quyết định chọn đề tài “Một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử 7 ” để nghiên cứu và cùng chia sẻ.

Với việc nghiên cứu đề tài này tôi mong muốn sẽ góp phần nhỏ giúp giáo viên tiến hành một giờ dạy học lịch sử đạt hiệu quả hơn, học sinh tích cực, chủ động trong việc tiếp thu kiến thức của bài học, từ đó nâng cao chất lượng dạy học lịch sử trong nhà trường. Đó là lý do tôi chọn đề tài này. 

II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.

1. Đối với giáo viên.

Sáng tạo về phương pháp dạy học phát huy tính chủ động, phát triển tư duy, tính tích cực, tự giác, tự học tập của học sinh.   

Chú trọng đến việc rèn luyện các kĩ năng, năng lực hành động, vận dụng kiến thức, tăng cường thực hành và gắn nội dung bài học với thực tế cuộc sống.

Thiết kế tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động của bài học lịch sử lớp 7 với hình thức đa dạng, phong phú, có sự hấp dẫn, phù hợp với đặc trưng bài học, với đặc điểm và trình độ học sinh, với điều kiện cụ thể của lớp, trường.

2. Đối với học sinh.

          Tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động học tập, tự khám phá và lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ và hành vi đúng đắn.

Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân; tích cực thảo luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho thầy (cô), cho bạn; biết vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.

Thông qua nội dung bài học, lên hệ thực tế tạo cho học sinh biết cách ứng phó trước những tình huống khó khăn trong cuộc sống hàng ngày và có cuộc sống bình thường trong một xã hội hiện đại.

III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.

          Áp dụng “Một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử 7 ” vào tổ chức dạy và học làm tăng hứng thú học môn lịch sử của học sinh, từ đó tạo cho học sinh ý thức muốn lĩnh hội cả về kiến thức, kĩ năng lẫn thái độ.

IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT.

Học sinh lớp 7A, 7B trung học cơ sở.

V. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU.

1. Phạm vi nghiên cứu.

          Để nâng cao quá trình tiếp thu và tạo hứng thú của các em trong quá trình học lịch sử, tôi tiến hành nghiên cứu “Một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử 7”. Đề tài tập trung giới thiệu và giải quyết những vấn đề về việc áp dụng một số phương pháp dạy học tích cực như kể chuyện lịch sử, sử dụng tranh ảnh và tiến hành hoạt động nhóm trong việc tổ chức dạy và học.

Trong đề tài này tôi tập trung nghiên cứu toàn bộ bộ môn lịch sử 7 và có thể áp dụng cho tất cả các khối 6,8,9 học lịch sử và có một số điểm áp dụng cho môn Văn, Giáo dục công dân…

2. Kế hoạch nghiên cứu.

Đề tài này được tôi nghiên cứu, tiến hành thực nghiệm từ năm học 2015- 2016 đến hết học kì một năm học 2016 - 2017.

VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

- Tìm hiểu thực tế.

- Nghiên cứu thực nghiệm.

- Tổng hợp tư liệu, tài liệu.

B. PHẦN NỘI DUNG.

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN.

 Nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần công lớn trong học tập của các em , trước khi người ra đi trong di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh có căn dặn:

Phải giáo dục thế hệ trẻ để cho họ trở thành người vừa hồng vừa chuyên

Trong điều kiện khoa học kỉ thuật phát triển như vũ bão, nền kinh tế tri thức có tính toàn cầu thì nhiệm vụ của ngành giáo dục vô cùng to lớn, một nhiệm vụ mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều coi là chiến lược của dân tộc mình.

Vì thế đại hội lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam trong nghị quyết ghi rõ “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, tương lai của một dân tộc, một quốc gia phải nhìn vào nền giáo dục của quốc gia đó. Giáo dục không chỉ truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải giúp học sinh vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống vừa mang tính giáo dục,vừa mang tính giáo dưỡng cao hơn là giáo dưỡng hướng đến nguồn gốc cội nguồn của tổ tiên và trân trọng nó.

Trong những năm gần đây, chương trình SGK mới của bộ GD-ĐT đã có rất nhiều những thay đổi về nội dung của bài học, về số lượng câu hỏi, bài tập, bài thực hành, sơ đồ, lược đồ…Những sự thay đổi đó nhằm mục đích nâng cao chất lượng giáo dục ở đối tượng học sinh, mà chất lượng của học sinh phụ thuộc chủ yếu vào phương pháp dạy học của giáo viên.

Nếu như trước đây việc truyền thụ kiến thức là nhiệm vụ quan trọng và đòi hỏi người dạy phải đóng vai trò chủ đạo tận dụng hết mọi năng lực của mình để giúp học sinh vấn đề bằng phương pháp thuyết giảng cho học sinh tiếp thu là chính. Thì nay phương pháp này không hợp lý trong chương trình sách giáo khoa mới từng bộ phận. Chương trình học ở các bậc học để áp dụng phương pháp dạy học mới lấy học sinh làm trung tâm, học sinh đóng vai trò chủ đạo trong tiết học thì người thầy, người giáo viên soạn giảng phải có những phương pháp dạy học mới.

II. CƠ SỞ THỰC TIỄN.

Dạy học là một quá trình d­ưới sự hoạt động tổ chức, điều khiển của ng­ười giáo viên, còn ngư­ời học tự giác, tích cực, chủ động biết tự tổ chức điều khiển hoạt động  học tập của mình.

Đặc thù học tập môn lịch sử của bậc trung học cơ sở là các em phải tiếp cận với nhiều sự kiện lịch sử, với những vị anh hùng, những danh nhân lịch sử vĩ đại không chỉ của dân tộc mà cả của thế giới từ cổ đến trung, từ cận đại đến hiện đại . Khi học lịch sử thì yêu cầu các em phải nhớ sự kiện và hiểu nội dung bài học một cách chính xác, đầy đủ. Vì thế bộ môn Lịch sử khó gây đ­ược hứng thú học tập ở các em.

Để học sinh tiếp thu nhanh, nhớ lâu, trong giảng dạy bộ môn lịch sử ở trường THCS giáo viên phải phát huy được tính tích cực của học sinh. Muốn vậy, giáo viên phải tạo đ­ược hứng thú học tập của các em, để các em dễ dàng tiếp thu kiến thức mà không bị gò ép. Trong đó phương pháp kể chuyện lịch sử, sử dụng tranh ảnh là một trong những phương pháp có ưu thế trong việc gây hứng thú học tập cho HS. Thông qua những câu chuyện lịch sử, tranh ảnh sinh động có liên quan đến một nhân vật, một địa danh hay một sự kiện sẽ có tác dụng giúp học sinh ghi nhớ tốt những sự kiện lịch sử, những nhân vật, mốc thời gian. 

Trong nội dung bài học có tiểu mục có nội dung dễ nhận biết, nhưng có tiểu mục có nội dung trừu tượng… khó nhận biết, mà để phát huy tính tư duy của học sinh thì giáo viên là người hướng dẫn, giúp đỡ các em khai thác kiến thức, không nên tự giải thích, thuyết trình kiến thức cho các em. Để làm được việc này thì nên cho các em thảo luận nhóm , các nhóm đọc sách giáo khoa cùng bàn bạc - phân tích - mổ xẻ - so sánh một nội dung ở tiểu mục giáo viên cho câu hỏi thảo luận rồi các em đánh giá, nhận xét và đưa ra câu trả lời cho nội dung trong đó. Với tình huống này các em trong nhóm sẽ tự giải quyết được vấn đề. Các em sẽ tự tin mạnh dạn, thêm yêu mến bộ môn và ham học hỏi nhiều hơn. Các em còn có được sự đoàn kết tương thân tương ái giúp đỡ nhau trong học tập theo hướng tích cực. Giáo viên hạn chế được phương pháp diễn giải thuyết trình, mang tính áp đặt kiến thức.

III. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.

   1. Thuận lợi.

Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, rất nhiều câu chuyện lịch sử đã được khám phá, tranh ảnh được đăng tải vì vậy giáo viên có thể dễ dàng tìm được những câu chuyện, tranh ảnh lịch sử hay, phù hợp và hỗ trợ nhiều cho nội dung mà bài học không đề cập hết.

Đối với việc áp dụng phương pháp thảo luận nhóm rất phù hợp với học sinh vì các em đã tiếp cận với phương pháp này từ những năm học cấp dưới ở hầu hết các môn học nên khá quen thuộc với giờ học mà học sinh là chủ thể hoạt động. Một số học sinh có kĩ năng thảo luận nhóm, lãnh đạo nhóm xuất sắc…đã hỗ trợ giáo viên tổ chức giờ dạy học thành công.

Việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào giảng dạy là phù hợp xu thế chung của ngành giáo dục nước ta hiện nay nên được sự ủng hộ từ ban giám hiệu, các các đồng nghiệp, học sinh.

 Chương trình môn lịch sử 7 có nhiều nội dung không những phù hợp với phương pháp thảo luận nhóm mà còn phát huy hiệu quả cao khi giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm. 

Giáo viên đã được đào tạo và tập huấn thường xuyên về đổi mới phương pháp dạy học.

2. Khó khăn.   

* Học sinh:  

Chất lượng dạy học môn Lịch sử hiện nay đặt ra vấn đề cần suy nghĩ. Số lượng học sinh say mê yêu thích môn Lịch sử là rất ít.        

Quan niệm của học sinh đối với môn lịch sử còn lệch lạc nên các em không đầu tư, không chú ý, xem thường hoặc học cho xong.

          Vì bộ môn Lịch sử lớp 7 với nhiệm vụ cung cấp một khối lượng kiến thức tương đối phong phú về lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc cần đặt ra yêu cầu cao mới thực hiện được nhiệm vụ đó, mặt khác do đặc trưng của bộ môn Lịch sử nó gây ra nhiều khó khăn cho quá trình nhận thức của các em. Vì đối tượng của lịch sử là quá khứ đã diễn ra, không thể tái hiện, không thể “ trực quan sinh động”, cũng không thể trực tiếp quan sát được.

* Phụ huynh:

Gia đình là môi trường đầu tiên giúp học sinh có ý thức học tập đối với môn Lịch sử, nhưng hiện nay không có nhiều gia đình, các bậc cha mẹ khuyến khích con em yêu thích lịch sử và tạo điều kiện cho con em học tốt, học giỏi môn này, vì một tâm lý “thực dụng”.

* Giáo viên:

Giáo viên giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường một phần nào đó chưa gây được sự hứng thú, tìm tòi và khám phá cho học sinh trong việc học bộ môn, cho nên nhiều học sinh chán ghét bộ môn và học chỉ để đối phó dẫn đến chất lượng kiểm tra một số em ở một số lớp còn thấp.

Tôi đã tiến hành khảo sát trước khi vận dụng dụng một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử 7 và thu được kết quả như sau:

Năm học 2015 - 2016

Sĩ số

HS ( Giỏi )

HS ( Khá )

HS (Trung bình)

HS ( Yếu )

62

16

9

30

7

Tỷ lệ

26 %

15 %

48 %

11 %

 

IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.

          Qua thực tế, chúng ta (những người trực tiếp đứng lớp, những nhà quản lý giáo dục) đều hiểu rằng: Hiện đang có tình trạng học sinh không yêu môn lịch sử, một trong những lí do là bởi phương pháp dạy còn nhàm chán. Để học sinh yêu và có hứng thú hơn với môn lịch sử, tôi xin đưa ra một số phương pháp nhằm nâmg cao chất lượng dạy và học môn lịch sử 7 nói riêng và lịch sử trung học cơ sở nói chung.

1. Phương pháp kể chuyện lịch sử.

1.1. Khái niệm về phương pháp kể chuyện lịch sử.

Kể chuyện lịch sử là một phương pháp dùng lời nói để diễn tả một cách sinh động hấp dẫn, có hình ảnh về một câu chuyện đang xảy ra trong quá khứ. Câu chuyện kể có khi chỉ là những mảnh sự kiện, biến cố lịch sử liên quan đến nội dung bài học, có khi là những tình tiết liên quan đến các nhân vật lịch sử, có khi chỉ là giải thích cho một cái tên, địa danh, cho một khái niệm, thuật ngữ trong bài học.

1.2. Nguyên tắc kể chuyện lịch sử.

Có thể nói rằng, bất cứ nơi nào, ở đâu những câu chuyện kể luôn luôn mang lại hiệu quả. Đặc biệt là tính giáo dục của các câu chuyện, môn lịch sử cũng không là ngoại lệ. Điếu quan trọng là ta phải biết sử dụng đúng lúc, đúng chỗ để nó phát huy giá trị và không làm mất thời gian của tiết học.

Khi sử dụng giáo viên phải biết chắt lọc, kể ngắn gọn và sau mỗi câu chuyện phải biết đặt những câu hỏi hoặc gợi ý cho học sinh nêu lên suy nghĩ của mình, từ đó học sinh tiếp nhận kiến thức một cách chủ động.

1.3. Ứng dụng cụ thể phương pháp kể chuyện lịch sử trong giờ dạy.

Với những nguyên tắc nêu trên, dưới đây là một số ứng dụng cụ thể:

Ví dụ 1: Khi dạy bài 9 – Nước Đại Cồ Việt thời Đinh – Tiền Lê, ở mục I­2­   giáo viên có thể kể về thái hậu Dương Vân Nga:

Khi đề cao võ công văn trị của Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, những vị anh hùng của công cuộc thống nhất đất nước không thể không nhắc đến công lao cua Dương Vân Nga đối với đất nước. Cỏ thể xem Dương Vâm Nga là cái cầu nối giữa Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, người làm cho côg cuộc thống nhất đất nứơc do Đinh Bộ Lĩnh khởi xưởng được Lê Hoàn hoàn tất. Sự nghiệp chính trị của người phụ nữ ấy không được sử cũ chú ý đến mà lại cứ tập trung vào thân phận làm vợ của bà. Vốn là con của ông Dương Thế Hiển quê ở vùng Nho Quan, Ninh Bình rồi trở thành vợ của Đinh Bộ Lĩnh, nên sau khi chồng bị ám hại, để lại đứa con 6 tuổi kế nghiệp Hoàng đế, Dương Vân Nga đã phải cáng đáng những khó khăn vượt quá sức mình. Sự nghiệp thống nhất đất nước vừa mới hoàn thành thì bị đe doạ từ nhiều phía. Bên ngoài phong kiến phương bắc sửa soạn đại binh xâm lược. Bên trong, các triều thần phân biệt tranh chấp ngay gắt có nguy cơ xảy ra nội chiến lớn. Là người có tầm nhìn xa thấy rộng, Dương Vân  Nga nhận thấy chỉ có Thập đạo tướng quân Lê Hoàn là người có khả năng giải quyết tình hình nghiêm trọng ấy. Nếu Dương Vân Nga không biết đặt lợi ích của đất nước lên trên lợi ích của dòng họ, bà có thể dựa vào một quyền thần để chống lại một quyền thần khác, ngoan cố bảo vệ ngai vàng cho đứa con nhỏ của mình, sẽ gây ra nạn bè đảng tranh chấp, đẩy đất nước vào thảm cảnh rối loạn. Vậy mà chỉ vì Dương Vân Nga lây chiếc áo bào choàng lên vai Lê Hoàn, về sau lại tở thành vợ của Lê Hoàn mà sử sách phong kiến đã xoá sạch công lao của bà. Ngược lại với cách nhìn nhận trên, nhân dân ta có thái độ rộng lượng và đúng đắn. Sử cũ chép: “Tục dân lập đền thờ tô ba pho tượng Tiên Hoàng, Đại Hành và Dương Vân Nga cùng ngồi”. Vùng Hoa Lư còn lưu nhiều truyền thuyết đẹp về Dương Vân Nga nằm ghi nhận công lao của bà. Đến thời Lê Mạt, An phủ sứ Lê Thúc Hiển ra lệnh cấm thờ chung ba nhân vật của sự nghiệp thống nhất hồi cuối thế kỉ thứ 10 thì dư luận dân gian đã phê phán quyết liệt. Truyền thuyết ở Hoa Lư còn kể rằng: sau khi Lê Thúc Hiển làm cái việc buộc lụa trắng vào cổ tay bức tượng Dương Vân Nga, dong tượng bà từ đền thờ Đinh Bộ Lĩnh  về đền thờ Lê Hoàn, thì trở về kinh, viên quan họ Lê ấy đã lăn ra chết vì đứt ruột.                 

           ( Theo: Các triều đại Việt Nam)

Kể chuyện này giáo viên chú ý bỏ qua những đoạn đánh giá nhận xét mà tập trung vào đoạn Dương Vân Nga lấy áo bào khoác lên người Lê Hoàn, cách đối xử của mọi người đối với bà. Từ đó đặt câu hỏi để học sinh thể hiện ý kiến của mình đối với thái hậu Dương Vân Nga, qua đó giáo dục tư tưởng cho học sinh.

Ví dụ 2. Khi dạy bài 14 – Ba lần kháng chiến chống quan xâm lược Mông – Nguyên, ở mục IV – Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử,  có thể kể về Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, …

HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN

Hơn bảy trăm năm trước, cả Á – Âu đang trong cơn kinh hoàng, khiếp đảm về cái hoạ Tác – ta (giặc Mông ), khi chúng lướt trên vó ngựa viễn chinh tàn phá hết nước này sang nước khác. Từ Thái Bình Dương sang tận bên bờ  Địa Trung Hải, khắp Á – Âu chưa có một danh tướng nào ngăn cản được. Giáo hoàng La Mã sợ hãi đến nỗi “… tuỷ khô, thân gầy, sức kiệt”. Người Đức hàng ngày cầu nguyện: “ Xin chúa cứu vớt chúng con khỏi cơn thịnh nộ Tác – ta !”, vó ngựa của chúng đi đến đâu cỏ không mọc được đến đó. Vậy mà ở miền Đông Nam châu Á, lũ giặc Tác – ta phải kinh hồn, lạc phách trước ý chí chiến đấu và tài nghệ quân sự tuyệt vời của quân dân Đại Việt dưới sự chỉ huy thiên tài của Quốc Công Tiết chế, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.

        Công lao to lớn của Người, ba lần tổng chỉ huy quân dân Đại Việt cả phá quân Nguyên – Mông hung bạo, đánh cho chúng thất điên bát đảo, Trấn Nam Vương Thoát Hoan chui vào ống đồng có người kéo qua biên ải mới thoát chết.

Với tài thao lược, trí dũng song toàn, luôn đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết, Trần Hưng Đạo không chỉ sống mãi trong lòng mọi người dân đất Việt mà còn vang danh khắp năm châu bốn biển. Trần Quốc Tuấn (1228 – 1300) là một anh hùng kiệt xuất của dân tộc ta đồng thời là danh nhân quân sự cổ kim của thế giới.

Người sinh ngày 10-12-1228 (Mậu tý), là con của An sinh vương Trần Liễu (anh ruột Trần Thái Tông – Trần Cảnh).

Người dung mạo hùng vĩ, thông minh hơn người, đủ tài văn võ, chuyên tâm nghiên cứu lục tam thao lược của người xưa và dành cả tâm huyết, hiểu biết của mình để viết: Binh thư yếu lược, Hịch tướng sĩ  để dạy các tướng cầm quân đánh giặc, khích lệ lòng yêu nước của quân dân Đại Việt.

Trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần hai, thấy rõ nếu để ngành trưởng và ngành thứ xích mích, nghi kị lẫn nhau thì chỉ có lợi cho kẻ thù. Người đã chủ động giao lưu hoà hiếu với Trần Quang Khải, tạo nên sự đoàn kết nhất trí trong Vương triều, bảo đám đánh thắng quân thù .

          Chuyện kể rằng: Một hôm Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ở bến Bình Than sai người mời Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ rồi sai người nấu nước thơm tự mình tắm rửa với Trần Quang Khải, từ đó vĩnh viễn xoá bỏ hiềm khích giữa hai chi họ (Quốc Tuấn là con của Trần Liễu ngành trưởng , Quang Khải con  của Trần Cảnh ngành thứ ). Lần khác, Quốc Tuấn đem việc xích mích hỏi các con, Trần Quốc Tảng  có ý khích ông nến cướp ngôi của chi thứ.

Ông nổi giận rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. May nhờ các con và những người tâm phúc van xin, ông mới bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng:

Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn thằng nghịch tử, phản thầy này nữa.

Trong kháng chiến ông luôn hộ giá bên vua, tay chống gậy bịt sắt .dư luận xì xào sợ ông giết vua. Ong liền bỏ luôn phần bịt sắt, chỉ chống gậy để tránh hiềm nghi, làm yêu lòng dân quân.

Ba lần chống giặc Nguyên – Mông, các vua Trần đều giao cho ông chức Tiết chế(tổng tư lệnh quân đội ), vì ông biết dùng người tài, thương yêu binh lính vì vậy tướng sĩ hết lòng thương yêu ông. Đạo quân cha con ấy trở thành đạo quân bách chiến bách thắng.

Trần Quốc Tuấn là vị tướng trụ cột của triều đình. Ông đã soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lược Vạn Khiếp tổng bí truỵền thư để răn dạy các tướng cầm quân đánh giặc.khi giặc Nguyên lộ rõ ý đồ xâm lược, ông viết “ Hịch tướng sĩ”, truyền lệnh cho các tướng, dạy bảo họ lẽ thắng bại, tiến lui. Hịch tướng sĩ rất hùng hồn, thống thiết, khẳng định văn chương của một bậc đại bút.

Trần Quốc Tuấn là một bậc đại tướng gồm đủ đức và tài. Là tướng nhân oâng thương dân như quân, chỉ cho họ con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều nghĩa. Là tướng trí, ông xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh giặc, tạo nên những trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời. Là tướng tín, ông bày tỏ trước quân lính theo ông sẽ được gì, trái lời ông sẽ gặp hoạ. Cho nên cả ba lần đánh giặc Nguyên, ông đều được giao trọg trách điều sát binh mã và đều la[65 được công lớn.

Hai tháng trước khi mất, vua Anh tông đến thăm và hỏi:

- Nếu chẳng may khanh mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao ?

Ông đã trăng trối những lới tâm huyết ,sâu sắc, đúng cho mọi thời đại:

- Thời bình phải khoan thứ sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước.

Mùa thu tháng tám, ngày 20 năm Canh tý (1300) “Bình Bắc đại nguyên soái” Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn qua đời. Theo lới ông dặn, thi hài ông được hoả tảng thu vào bình đồngvà chôn trong vườn An Lạc, gần cánh rừng An Sinh, không xây lăng mộ, đất san phẳng , trồng cây như cũ. Vua gia phong cho ông chức Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp phong của ông lúc sinh thời.

( Theo: Các triều đại Việt Nam )         

          Lúc kể những câu chuyện lịch sử chính là lúc HS tập trung chú ý lắng nghe, đó là cơ hội tốt để giáo dục tư tưởng cho HS, làm cho HS càng thêm yêu dân tộc mình, biết thêm những điều mà trong SGK chưa cung cấp nhưng lại rất cần thiết trong cuộc sống, trong quá trình học tập của mỗi con người.

Có một điều chắc chắn rằng HS sẽ nhớ nội dung của mỗi bài nhiều hơn nhờ những câu chuyện này. Đặc biệt HS sẽ biết nhiều hơn về mỗi triều đại, biết nhiều nhân vật lịch sử hơn. Từ đó môn lịch sử có giá trị cao hơn trong lòng các em. Điều này có thể được chứng thực ở lớp 7A­,7B.

Nguyên tắc khi kể chuyện trong giờ học lịch sử là không kể tràn lan và phải thông qua câu chuyện để làm nổi bật nội dung bài, giáo dục tư tưởng cho học sinh.

2. Phương pháp khai thác kênh hình.

2.1. Phân loại kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử.

Tranh, ảnh lịch sử: Là kênh hình có khả năng khôi phục lại hình ảnh của những con người, đồ vật, sự kiện lịch sử, biến cố một cách cụ thể sinh động và khá xác thực.

Lược đồ lịch sử: Là kênh hình nhằm xác định địa điểm của những sự kiện trong thời gian và không gian nhất định. Đồng thời giúp học sinh suy nghĩ và giải thích các hiện tượng Lịch sử về mối quan hệ liên hệ nhân quả, có tính quy luật và trình độ phát triển của quá trình Lịch sử, giúp các em học sinh ghi nhớ những kiến thức đã học.

 Biểu đồ: Là kênh hình dùng để diễn tả quá trình phát triển, sự vận động của một sự kiện Lịch sử, trên cơ sở sử dụng số liệu, tài liệu thống kê trong bài học. Biểu đồ thường được biểu diễn trên trục hoành ( Ghi thời gian) và trục tung ( Ghi sự kiện).

2.2. Kỹ năng khai thác kênh hình.

Để khai thác tốt kênh hình phục vụ cho việc giảng dạy bộ môn lịch sử, cần đảm bảo một số kĩ năng cơ bản sau:

Phải biết và hiểu được kiến thức cơ bản của kênh hình. Xác định mục đích cần hướng đến khi khai thác kênh hình. Thiết kế câu hỏi hợp lý, trọng tâm.

2.3. Nguyên tắc khai thác kênh hình.

Giáo viên đứng lớp cần phải có sự chuẩn bị chu đáo cẩn thận, nghiên cứu kỹ trước nội dung các kênh hình trước khi lên lớp. Chuẩn bị lời nói ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu và gây hứng thú cho học sinh. Chính yêu cầu đó sẽ giúp người giáo viên nâng cao ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm trong các giờ lên lớp.

          Ngoài ra các giờ sử dụng kênh hình trong dạy học giáo viên chủ yếu đóng vai trò hướng dẫn, chỉ đạo, còn học sinh phải tự quan sát nghiên cứu để rút ra kiến thức. Giáo viên phải khắc phục khó khăn sưu tầm các tài liệu có liên quan đến kênh hình, trao đổi chuyên môn tổ, cụm chuyên môn để có cách sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa một cách hiệu quả nhất.

Bên cạnh đó học sinh học sinh phải tự giác tìm hiểu kênh hình dưới sự hướng dẫn gợi mở của giáo viên, tiếp nhận kiến thức một cách chủ động.

Để nâng cao hiệu qủa sử dụng kênh hình cần đảm bảo các nguyên tắc sau:

Một là: Sử dụng đúng mục đích.

Hai là: Sử dụng đúng lúc.

Ba là: Sử dụng đúng mức độ, cường độ.

Bốn là: Kết hợp sử dụng kênh hình sách giáo khoa với các đồ dùng được trang bị.

Năm là: Nội dung thuyết minh kênh hình phải sinh động, hấp dẫn.

Sáu là: Hướng dẫn học sinh quan sát (từ tổng thể đến chi tiết), kết hợp

miêu tả, phân tích, đàm thoại thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở của giáo viên để học sinh tự rút ra được ý nghĩa của kênh hình đó. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm, cá nhân hoặc toàn lớp.

2.4. Ứng dụng cụ thể phương pháp sử dụng kênh hình trong giờ dạy.

Với những kĩ năng cơ bản và các nguyên tắc nêu trên, dưới đây là một số ứng dụng cụ thể:

Ví dụ 1: Khi dạy bài 10 – Nhà Lý đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước, ở mục 1 – Sự thành lập nhà Lý, có thể sử dụng hình ảnh:

Hình 1: Tượng Lý Thái Tổ ở Hà Nội

Khi HS đọc xong mục 1 giáo viên có thể cho HS xem hình và đặt câu hỏi để HS xác định tượng trong hình là ai. Khi xác định được giáo viên lại hỏi về thân thế của họ. Từ đó giáo viên dựa vào hình để tổng kết, nêu lên công lao của Lý Công Uẩn.

          Ví dụ 2. khi dạy bài 12 – Đời sống kinh tế, văn hóa, ở mục IIgiáo viên có thể sử dụng hình chùa Một Cột trong SGK trang 48 hoặc hình sau (mặt sau của chùa):

Kết quả hình ảnh cho chụp Chùa Một Cột ở thủ đô Hà Nội

Hình 2: Chùa Một Cột ở thủ đô Hà Nội

Giáo viên có thể hỏi HS những hiểu biết về ngôi chùa này như: năm xây dựng, kiểu kiến trúc, sự độc đáo của nó, …Từ đó giáo viên khắc sâu những kiến thức liên quan làm cho HS có ấn tượng sâu sắc về ngôi chùa. Từ đây các em có thể giải đáp cho bất cứ ai hỏi về ngôi chùa, cho dù đó là người nước ngoài.

Ngoài chùa Một Cột, thời Lý còn có nhiều ngôi chùa nổi tiếng khác có thể dùng để làm nổi bật kiến trúc thời Lý như: chùa Keo, chùa Phật Tích( Bắc Ninh), chúa Thầy(Hà Tây)

Ví dụ 3. Ngoài ra giáo viên có thể sử dụng một số hình ảnh sau đề làm cho mục II 2 được rõ hơn (Những ngôi chùa được xây dựng hoặc đại tu dưới thời Lý):

 

Hình 3: Bố cục của Văn miếu Quốc tử giám

Hình 4: Tượng A –di – đà (chùa Phật Tích – Bắc Ninh

Hình ảnh có liên quan

Hình 5: Chùa Trấn Quốc (được trùng tu dưới thời Lý)

2.5. Cung cấp tư liệu cho học sinh.

          Sách giáo khoa thường cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản. Đó là một việc làm hết sức cần thiết, không cần phải bàn cải. Nhưng bây giờ thử hỏi, học xong lịch sử lớp 7 mà HS không biết nhà Lý có những vị vua nào, nhà Trần có những vị vua nào? Lý Thường Kiệt là ai? Chu Văn An là ai? Thì đã thực sự hợp lý hay chưa. Vì vậy để HS của mình có cái nhìn khái quát hơn, cụ thể hơn thì giáo viên nên cung cấp cho HS những tư liêu cần thiết.

          Tư liệu cung cấp cho HS phải phục vụ cho việc học của HS, tư liệu đó HS có thể sử dụng lâu dài trong cuộc sống.

          Khi cung cấp tư liệu giáo viên không được bắt ép HS phải có nó mà phải để cho HS hoàn toàn tự nguyện sử dụng. Giáo viên chỉ cố gắng động viên cho HS có được nó và sử dụng.

          Ví dụ: Khi dạy bài 8 – Nước ta buổi đầu độc lập, giáo viên có thể hỏi: từ trước đến nay nước ta có những tên gọi nào?

          HS sẽ trả lời nhưng chắc chắn không đầy đủ. Từ đó giáo viên cho HS thấy sự cần thiết phải biết các quốc hiệu của nước mình (như đặt ra trường hợp một người nước ngoài hỏi chẳng hạn, nếu không trả lời được thì sẽ như thế nào). Bây giờ giáo viên có thể cung cấp cho HS tư liệu về Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kì:

Quốc hiệu Việt Nam

Dưới đây là danh sách các quốc hiệu chính thức của Việt Nam theo dòng lịch sử. Các quốc hiệu này đều được ghi chép trong các sách sử Việt Nam, hoặc được chính thức sử dụng trong nghi thức ngoại giao quốc tế.

1. Văn Lang.

Văn Lang là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam. Quốc gia này có kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lãnh thổ gồm khu vực Đồng bằng Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ.

2. Âu Lạc.

Năm 257 TCN, nước Âu Lạc được dựng lên, từ liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán - An Dương Vương. Âu Lạc có lãnh thổ bao gồm lãnh thổ của Văn Lang trước đây và một phần đông nam Quảng Tây.

Khoảng cuối thế kỷ thứ 3 TCN, đầu thế kỷ thứ 2 TCN (năm 208 TCN hoặc 179 TCN), Triệu Đà (quận úy Nam Hải-nhà Tần) tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại, nhà nước Âu Lạc bị diệt vong.

3. Vạn Xuân.

Vạn Xuân là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602 thì bị nhà Tùy tiêu diệt.

4. Đại Cồ Việt.

Đại Cồ Việt là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Đinh đến đầu thời nhà Lý, do Đinh Tiên Hoàng đặt năm 968. Quốc hiệu này tồn tại 86 năm đến năm 1054, đời vua Lý Thánh Tông đổi sang quốc hiệu khác.

5. Đại Việt

Đại Việt là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý, bắt đầu từ năm 1054, khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu này tồn tại không liên tục (gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh), đến năm 1804, trải qua các vương triều , Trần, , MạcTây Sơn, khoảng 743 năm.

6. Đại Ngu.

Đại Ngu (nghĩa là Niềm vui lớn) là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ. Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền. Sau khi nhà Hồ bị thất bại trước nhà Minh, và nhà Hậu Lê giành lại độc lập cho Việt Nam, quốc hiệu của Việt Nam đổi lại thành Đại Việt.

7. Việt Nam.

Quốc hiệu Việt Nam chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long sử dụng từ năm 1804.

 

8. Đại Nam.

Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam, ngụ ý một nước Nam rộng lớn. Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945.

9. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà là tên gọi của cả nước Việt Nam từ 1945 đến  đến 1976. Nhà nước được thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 (ngày quốc khánh của Việt Nam ta ngày nay).

10. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội khóa 6 nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đã quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu này được sử dụng từ đó đến nay.

          Các tư liệu, trong quá trình dạy học giáo viên cần cho HS vận dụng để các em thấy kiến thức đó là bổ ích. Có như vậy thì HS mới chịu đọc, còn không dù có các em cũng bỏ đó mà không dùng tới.

          Ví dụ: Khi gọi HS lên bảng ngoài các câu hỏi trong chương trình giáo viên có thể sử dụng câu hỏi phụ để hỏi HS về những kiến thức bổ sung như: Hãy kể tên các vua thời Lý. Làm như vậy HS sẽ tích cực đọc để biết thêm, từ đó rèn văn hóa đọc cho học sinh.

3. Phương pháp thảo luận nhóm.

3.1. Khái niệm về phương pháp thảo luận nhóm.

Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dùng lời nói trong đó giáo viên hoặc trưởng nhóm gợi mở động viên và tổ chức cho học sinh tham gia ý kiến về một vấn đề mở, trên cơ sở đó rút ra kết luận, kiến thức mới, xác định và làm sáng tỏ vấn đề, trao đổi ý kiến,tin tức liên quan đến bài học, chuẩn bị cho một kế hoạch tìm tòi và nghiên cứu vấn đề…

3.2. Đặc điểm của phương pháp thảo luận nhóm.

Mang tính tích cực, tự lực, tự giác rất cao và có tính chất chủ thể.

Đòi hỏi người học phải có kiến thức, kinh nghiệm, có đủ tài liệu tham khảo.

Người học tìm ra kiến thức mới, nhìn vấn đề nhiều góc cạnh khác nhau.

Về mặt xã hội: Thảo luận tạo điều kiện phát triển quan hệ giữa các thành viên nhóm học sinh, nghe, nói, tranh luận, lãnh đạo.

Về mặt giáo dục: Phát triển tính dân chủ, hợp tác ở học sinh.

3.3. Mục đích sư phạm của phương pháp.

Tạo cho học sinh có cơ hội lập luận bảo vệ ý kiến của mình.

Tạo cho học sinh có cơ hội lắng nghe ý kiến của bạn và điều chỉnh quan điểm của mình.

Đưa ra một ý kiến quyết định chung của một nhóm hoặc một tập thể từ nhiều ý kiến kinh nghiệm khác nhau.

3.4. Phân loại phương pháp thảo luận.

Thảo luận có hướng dẫn; Báo cáo Xêmina có thảo luận; tọa tàm; tranh luận.

3.5. Ưu điểm và hạn chế.

a. Ưu điểm:

Tăng khả năng giao tiếp học sinh và giáo viên hoặc học sinh và học sinh.

Nhiều người trình bày được nhiều ý kiến dưới góc nhìn khác nhau.Với thái độ hiểu biết và chấp nhận.

Có khả năng xử lý thông tin,nhạy bén với các quyết định.

Phát huy tính tự giác tích cực,tự lực của học sinh.

Tăng tinh thần hợp tác,tổ chức của học sinh.

b. Hạn chế:

Số người thảo luận nhóm phải có giới hạn.

Hạn chế chủ đề một số nội dung,một số học sinh.

Tốn nhiều thời gian chuẩn bị,tiến hành, đúc kết.

Người tham gia phải có kinh nghiệm và đủ tài liệu tham khảo.

Người học khó chịu vì phải suy nghĩ,chú ý nhiều,góp ý kiến nhiều.

Một số người còn chủ quan,thành kiến dẫn đến bảo thủ,ngụy biện lạc đề.

3.6. Để việc thảo luận đạt kết quả tốt, GV cần phải quan tâm đến các khâu quan trọng như sau.

a. Chuẩn bị:

Chuẩn bị nội dung thảo luận.

Tổ chức thảo luận.

Theo dõi thảo luận.

Tổng kết thảo luận.

b. Một số yêu cầu trong phương pháp thảo luận:

Tùy theo số lượng học sinh trong lớp, nội dung học tập mà giáo viên chia thành bao nhiêu nhóm ,số lương thành viên trong nhóm. Tùy theo mục tiêu và yêu cầu vấn đề học tập mà mà các nhóm được phân ngẫu nhiên hoặc mặc định, được duy trì ổn định trong cả tiết học hoặc thay đổi theo từng hoạt động của tiết học. Các nhóm được giao cùng một nhiệm vụ hoặc khác nhiệm vụ.

Để chia nhóm theo ngẫu nhiên, có thể dùng thẻ học tập co ghi số hoặc điểm danh hoặc ghép mảnh theo chủ đề học tập. Trong tiết học ,nếu có nhiều nội dung, ta nên thay đổi hình thức nhóm, tạo ra cái mớ, không khí học tập vui vẻ hơn

 Để chia theo chủ định, giáo viên nên chú ý đặc điểm của học sinh (trình độ, thái độ, tính cách, giới tính…) để cơ cấu nhóm cho phù hợp.

* Các hình thức nhóm cụ thể:

 Nhóm nhỏ 2-3 HS: Kỹ thuật này thường dùng khi cần học sinh trao đổi, thảo luận những vấn đề cụ thể, đơn giản, thời gian ngắn.

          Nhóm ghép đội: dùng để nghiên cứu , phân tích , trao đổi vê một số vấn đề phức tạp đòi hỏi có sự cộng tác cao.

 Nhóm 4-6 HS: dung khi hs trao đổi ý kiến hoặc thực hành một công việc cụ thể đồi hỏi nổ lực chung của cả nhóm khi tiến hành thảo luận.

Nhóm 6-8 HS: dùng khi thảo luận với nội dung có nhiều vấn đề, nhiều quan điểm trong khả năng giải quyết của học sinh, các vấn đề cần so sánh hay đi sâu hơn vào một nội dung đã thảo luận ở nhóm nhỏ nhưng khó thực hiện chung cho cả lớp.

Nhóm xuất phát và nhóm chuyên sâu: dùng khi thu thập thông tin và các vấn đề thảo luận, rèn luyện kỹ năng xử lý và trình bày thông tin.

* Các bước tiến hành:  

Bước 1: Giáo viên hợp chung cả lớp, chia nhóm, nêu vấn đề học tập xác định nhiệm vụ nhận thức cho nhóm, gợi  ý và hướng dẫn học sinh cách thảo luận.

 Bước 2: Học sinh phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm. Giáo viên quan sát, theo dõi và giúp đỡ các em thảo luận nếu cần.

Bước 3: Học sinh cử đại diện báo cáo kết quả của nhóm, góp ý và bổ sung cho nhau.

Bước 4: Giáo viên đánh giá, nhận xét, bổ sung, kết luận.

c. Tiến hành các khâu trong quá trình thảo luận.

* Chuẩn bị nội dung thảo luận:

Trước tiên GV cần chọn bài, chọn vấn đề thích hợp cho HS thảo luận.

Cần lưu ý khi chọn đề tài thảo luận là phải xem xét nghiên cứu xem HS đã biết gì về chủ đề đã nêu ra.

Khi đã chọn được vấn đề thảo luận đúng yêu cầu, GV cần thông báo cho học sinh chuẩn bị ý kiến (viết thành văn bản) tham gia thảo luận.

Từ đó HS ý thức được yêu cầu nội dung của đề tài, các nguồn tài liệu chính, kế hoạch thực hiện và nhiệm vụ của tập thể cũng như của từng cá nhân…

* Tổ chức thảo luận:

 Mở đầu thảo luận: GV nên thông báo về chủ đề cần thảo luận, quy trình và nguyên tắc thảo luận.

Hướng dẫn thảo luận:Trong quá trình thảo luận GV làm nhiệm vụ quan sát, theo dõi mà không tham gia ý kiến thảo luận, không cắt ngang lời HS, không tỏ phản ứng nếu câu trả lời, tranh luận không đúng với ý mình. Tuy nhiên nhằm làm tăng thêm hứng thú khi thảo luận, GV cũng có thế đưa ra các câu, giống như “ván nhún” hoặc nêu ra cách thảo luận để tạo không khí sôi nổi cho buổi thảo luận. Tạo không khí thân mật, cởi mở, khuyến khích sự tham gia của mỗi HS trong thảo luận. Khi thảo luận, GV phải nghe cẩn thận những điều học HS nói để hiểu HS định nói cái gì.

* Tổng kết thảo luận:

GV tổng kết những ý kiến phát biểu, nêu lên một cách súc tích và có hệ thống những ý kiến thống nhất và chưa thống nhất.

Tham gia ý kiến về những điều chưa thông nhất và bổ sung thêm những điều cần thiết. Những ý kiến chưa thống nhất có thể sắp xếp vào buổi thảo luận sau

GV cần đánh giá các ý kiến phát biểu, nhận xét tinh thần thái độ làm việc chung của tập thể, của nhóm và cá nhân HS.

* Một số vấn đề cần lưu ý khi tổ chức thảo luận nhóm:

Các vấn đề đưa ra thảo luận phải là những vấn đề buộc các thành viên trong nhóm cùng suy nghĩ để đóng góp tìm hiểu bài.  

Khi chia nhóm thảo luận nên cơ cấu có đủ thành phần (giỏi – khá – trung bình – yếu – kém, hiếu động – trầm lặng…). Nên để học sinh luân phiên nhau làm nhóm trưởng, thư kí. Qui mô nhóm không nên quá đông.

Giáo viên nên chuẩn bị kỹ vấn đề cần thảo luận và dự kiến các tình huống xảy ra cùng các phương án xử lý.

Giao nhiệm vụ phải rõ ràng, cụ thể, đảm bảo mỗi học sinh đều hiểu nhiệm vụ.

Trong quá trình học sinh làm việc, giáo viên phải theo dõi từng nhóm, có sự giúp đỡ, hướng dẫn kịp thời, đảm bảo tất cả học sinh đều làm việc.

Trong mỗi nhóm cần có sự phân công ràng nhiệm vụ cụ thể trong đó đề cao vai trò hợp tác.

Cần tao không khí thi đua giưa các nhóm để khuyến khích học tập.

Giáo viên nên nhận xét ngắn gọn về tình hình làm việc của các nhóm để kịp thời động viên, khuyến khích các nhóm thảo luận tốt hơn và rút kinh nghiệm các nhóm làm việc chưa tốt.

 

3.7. Các phương pháp, biện pháp tiến hành thực nghiệm.

a. Về chuẩn bị dụng cụ để hoạt động nhóm:

Theo tôi đặc thù các lớp 7 ở trường Trung học cơ sở thì mỗi lớp có 16 bàn nên chia thành 4 nhóm (để tránh di chuyển nhiều tốn thời gian và ồn ào mất trật tự, chỉ 2 bàn quay mặt lại là được).

Mỗi nhóm phải có 2 bảng phụ, kích thước không nhỏ và cũng không quá to, quy định cỡ 50cm x 70cm là vừa + bút lông xóa được, 1 cây màu đỏ và 1 cây màu xanh hoặc đen. Nếu vùng khó khăn giáo viên có thể làm bảng phụ bằng giấy A4 và bút chì màu.

Giáo viên phân nhóm và có nhóm trưởng, nhóm phó,thư kí (phòng khi nhóm trưởng vắng) để điều hành chung và chuẩn bị dụng cụ cho tốt.

b. Về phương pháp cách thức hoạt động.

* Về phía giáo viên:

Chọn nội dung hoạt động nhóm thường là nội dung có nhiều ý, nội dung trọng tâm, có tính tư duy học sinh trung bình và yếu khó giải quyết.

Xây dựng trong giáo án hệ thống câu hỏi, tình huống vấn đề phải cụ thể rõ ràng có dàn ý hệ thống chi tiết, giúp HS dễ biết cách thức nhanh chóng và có hệ thống (vì thời gian có hạn).

GV nên cho HS về nhà xem trước, phân tích, tìm hiểu là toàn bài học mới, nhưng để chuẩn bị thì có thể cho 2 đến 3 nội dung và có thể 2 nhóm hoặc 3 nhóm chuẩn bị một nội dung không nên đưa ra nhiều  nội dung thảo luận quá (4) hoặc ít quá (1) nên chọn sao cho hợp lí tùy nội dung và thời gian trong tiết dạy.

* Về phía học sinh:

Phải chuẩn bị nội dung trước ở nhà.

Khi đến lớp có lệnh thảo luận phải nhanh chóng vào vị trí, phải biết dựa vào SGK, kiến thức cũ đã học, lược đồ, biểu đồ, bài tập, câu hỏi để bàn bạc thảo luận.

Nhóm trưởng phải tôn trọng tất cả các ý kiến của các thành viên trong nhóm, phải làm sao ( giảng giải, phân tích…) cho các học sinh trung bình, yếu trong  nhóm hiểu được vấn đề và có thể thay mặt nhóm lên trình bày trước lớp.

HS thảo luận nhỏ đủ nghe trong nhóm, không cãi và ồn ào, đi lại trong lớp, khi có hiệu lệnh hết thời gian thảo luận nhanh chóng quay về vị trí và tiếp tục chú ý theo dõi để tiếp thu kiến thức hoặc bổ sung thêm ý kiến…

Trước khi thảo luận nhóm về một vấn đề (một nội dung cần phân tích,giải thích…) nên cho mỗi cá nhân trong nhóm tự ghi ý kiến riêng vào phiếu học tập (hoặc giấy nháp riêng) rồi đưa ra thảo luận thống  nhất ý kiến đúng.

 

3.8. Ứng dụng cụ thể phương pháp thảo luận nhóm trong giời dạy.

* Ví dụ 1:

Bài 4: Trung Quốc thời phong kiến

1. Sự hình thành xã hội phong kiến ở Trung Quốc.

Sau khi giáo viên dùng bản đồ giới thiệu kết hợp phân tích điều kiện hình thành và phát triển của Trung Quốc, có thể cho học sinh thảo luận theo hình thức nhóm 6 đến 8 em theo 2 câu hỏi sau:

- Câu 1 ( Nhóm 1, 2): Những điều kiện nào đã làm biến đổi sâu sắc xã hội Trung Quốc thời cổ đại?

- Câu 2( Nhóm 3, 4): Xã hội Trung Quốc đã bị phân hoá như thế nào?

Với những câu hỏi này có thể cho học sinh thảo luận trong 5 phút. Sau khi học sinh thảo luận, các nhóm trình bày và nhận xét trong cùng câu hỏi, giáo viên đưa ra đáp án ( có thể ghi bảng phụ hoặc dùng máy chiếu) kết hợp khái quát nội dung và nhận xét phần báo cáo của mỗi nhóm.

* Đáp án:

- Những điều kiện đã làm biến đổi sâu sắc xã hội Trung Quốc thời cổ đại:

 + Những  tiến bộ trong sản xuất : Việc xuất hiện công cụ sản xuất bằng sắt và những tác dụng của nó => kĩ thuật canh tác mới, giao thông và thuỷ lợi thuận tiện, năng xuất lao động tăng.

+ Những tiến bộ trong sản xuất đã tác động đến xã hội, làm cho xã hội có sự biến đổi.

 - Xã hội Trung Quốc đã bị phân hoá như thế nào?

  + Giai cấp địa chủ xuất hiện    

  + Nông dân bị phân hoá             => Quan hệ sản xuất phong kiến hình thành

(Hoặc giáo viên có thể khái quát trên sơ đồ)

2. Xã hội Trung Quốc thời Tần- Hán.

Ở ý thứ nhất- thời nhà Tần, sau khi giáo viên cho học sinh tìm hiểu về Tần Thuỷ Hoàng, có thể cho các em thảo luận theo nhóm lớn sơ đồ tư duy với hai câu hỏi sau:

Câu 1( Nhóm 1, 2): Em trình bày tổ chức bộ máy nhà nước thời Tần?

Câu 2 ( Nhóm 3, 4): Các chính sách của ông đã gây ra hậu quả gì?

          Tương tự như phần trên, giáo viên có thể cho học sinh thảo luận trong 5 phút, sau đó các nhóm báo cáo kết quả và nhận xét chéo trong cùng câu hỏi. Giáo viên đưa ra đáp án, khái quát nội dung và nhận xét kết quả thảo luận của các nhóm.

 

 

 

3. Sự thịnh vượng của Trung Quốc dưới thời Đường.

 

          Ở phần này, sau khi giáo viện cho học sinh đọc sách giáo khoa, yêu cầu học sinh thảo luận cặp đôi trong thời gian 3 phút theo câu hỏi sau: ? Sự thịnh vượng của Trung Quốc dưới thời Đường được thể hiện như thế nào?

 Sau khi học sinh thảo luận, đại diện một số cặp sẽ trình bày, các nhóm khác theo dõi và nhận xét. Sau các ý kiến nhận xét, giáo viên nhận xét chung và khái quát nội dung

 *  Ví dụ 2:

Bài 11: Cuộc kháng chiến chống quân Tống ( 1075- 1077)

  I. Giai đoạn thứ nhất.

   1. Nhà Tống âm mưu xâm lược nước ta.

   2. Nhà Lý chủ động tiến công để phòng vệ.

Sau khi cho học sinh tìm hiểu phần này, giáo viên có thể cho học sinh thảo luận theo nhóm với kĩ thuật khăn phủ bàn bằng hai câu hỏi sau:

 - Câu 1(nhóm 1, 2): Cuộc tấn công vào đất Tống của nhà Lý có phải là hành động xâm lược không? Vì sao?

 - Câu 2(nhóm 3, 4): Việc nhà Lý chủ động tấn công vào đất Tống có ý nghĩa như thế nào?

 Học sinh thảo luận trong thời gian 5 phút, sau đó đại diện các nhóm sẽ báo cáo kết quả thảo luận, các nhóm khác theo dõi, nhận xét, đóng góp ý kiến. Sau thời gian báo cáo và nhận xét của các nhóm giáo viên đưa ra đáp án ( có thể ghi bảng phụ hoặc dùng máy chiếu), khái quát nội dung và nhận xét kết quả thảo luận của từng nhóm.

 * Đáp án:

 Câu 1: Cuộc tấn công vào đất Tống của nhà Lý không phải là hành động xâm lược, vì nhà Lý chỉ tấn công các căn cứ quân sự, kho lương thảo, đó là những nơi quân Tống tập trung lực lượng, vũ khí để chuẩn bị xâm lược Đại Việt. Hơn nữa, khi hoàn thành được mục đích thì nhà Lý đã cho rút quân ngay.

Câu 2: Việc chủ động tấn công quân Tống có ý nghĩa:

         - Tiêu diệt lực lượng mà quân Tống chuẩn bị để xâm lược nước ta.

         - Làm quân Tống hoang mang, bị động, thêm khó khăn cho việc xâm lược nước ta.

         - Buộc quân Tống phải có thời gian để củng cố lực lượng và quân ta cũng có thời gian để chuẩn bị tốt cho cuộc kháng chiến chống Tống mà biết trước không thể tránh khỏi.

      Các nhóm theo dõi, so sánh với kết quả thảo luận của nhóm mình và tự rút kinh nghiệm.

  * Ví dụ 3:

Bài 13: Nước Đại Việt thế kỉ XVIII

 I. Nhà Trần thành lập.

  1. Nhà Lý sụp đổ.

  2. Nhà Trần củng cố chế độ phong kiến tập quyền.

Sau khi giáo viên cho học sinh tìm hiểu tổ chức bộ máy nhà nước thời Trần có thể cho các em hoạt động nhóm bằng sơ đồ tư duy  theo hai yêu cầu sau:

Câu 1( nhóm 1, 2): Hãy vẽ sơ đồ bộ máy nhà nước cấp trung ương thời nhà Trần?

Câu 2( nhóm 3, 4): Hãy vẽ sơ đồ bộ máy nhà nước cấp trung gian và cấp cơ sở thời nhà Trần?

Với câu hỏi thảo luận này giáo viên có thể cho các nhóm tiến hành trong 3- 4 phút, sau đó yêu cầu đại diện các nhóm lên bảng trình bày, hoặc trình bày ra giấy( nếu dạy máy chiếu), hoặc ra bảng phụ. Thành viên các nhóm khác theo dõi và nhận xét.

          Sau khi học sinh trình bày, nhận xét, giáo viên đưa ra sơ đồ đã chuẩn bị:

 - Học sinh quan sát, rút kinh nghiệm.

*  Ví dụ 4:

Bài 20: Nước Đại Việt thời Lê sơ ( 1428- 1527)

II. Tình hình kinh tế- xã hội.

1. Kinh tế.

 Để dạy phần này, giáo viên có thể cho học sinh đọc sách giáo khoa sau đó thảo luận theo câu hỏi sau:

? Để nhanh chóng phục hồi và phát triển kinh tế, nhà nước Lê sơ đã thực hiện những biện pháp gì? Nhận xét về những biện pháp đó?

 Sau đó giáo viên chia nhóm ( 4- 6 học sinh) thảo luận kĩ thuật khăn phủ bàn theo lĩnh vực kinh tế, cụ thể:

 - Nhóm 1, 2 : Thảo luận về vấn đề nông nghiệp.

 - Nhóm 3, 4: Thảo luận về vấn đề thủ công nghiệp.

 - Nhóm 5, 6: Thảo luận về vấn đề thương nghiệp.

Thời gian cho phần thảo luận là 5 phút, sau thảo luận các nhóm báo cáo kết quả( nếu sử dụng máy chiếu, giáo viên có thể chiếu kết quả của từng nhóm lên màn hình), các nhóm khác cùng theo dõi và nhận xét.

          Sau phần báo cáo và nhận xét của học sinh, giáo viên đưa ra nội dung đáp án của câu hỏi đã chuẩn bị:

- Về nông nghiệp:

  + Xóm làng điêu tàn, ruộng đồng bỏ hoang đời sống nhân dân khổ                             cực.

         + Cho lính về quê làm rộng.

         + Kêu gọi dân phiêu tán về quê làm ruộng..

         + Đặt các chức quan chuyên lo sản xuất nông nghiệp.

         + Thực hiện chính sách quân điền.

         + Cấm giết trâu bò.

         => Lực lượng sản xuất được đảm bảo, nông dân có ruộng để sản xuất, diện tích đất nông nghiệp được mở rộng => nông nghiệp phát triển.

- Về thủ công nghiệp:  

           + Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời.

           + Thăng Long là nơi tập trung nhiều nghành nghề thủ công nhất.

           + Quản lý, đẩy mạnh các xưởng thủ công nhà nước.

         => Thủ công nghiệp được mở rộng về qui mô sản xuất, trình độ kỹ thuật của thợ thủ công ngày càng cao.

- Về thương nghiệp:  

+ Khuyến khích lập chợ mới và họp chợ.

          + Đúc tiền đồng.

          + Buôn bán với nước ngoài phát triển.

         => Hàng hoá, tiền tệ được lưu thông dễ dàng.

 Học sinh so sánh kết quả thảo luận của mình với đáp án, rút ra bài học. 

* Lưy ý: Hoạt động thảo luận nhóm còn được thể hiện ở những trò chơi lịch sử

( trò chơi ô chữ, ai nhanh hơn ai cho nhóm 2 học sinh, trò chơi ngôi sao may mắn, theo dòng lịch sử cho nhóm 4- 6 học sinh . . .), nhất là ở các bài dạy có áp dụng công nghệ thông tin. Trong phạm vi hạn hẹp của một đề tài nên tôi không thể đưa hết tất cả các ví dụ minh hoạ được.

* Các bước thảo luận nhóm khi tiến hành giảng dạy, giáo viên rút ra những đặc điểm chung sau:

- Giáo viên phải chọn nội dung thảo luận, ghi lên bảng phụ.

- Phân nhóm và quy định nội dung cho từng nhóm hoạt động.

- Lắng nghe và gợi ý cho học sinh.

- Động viên, khích lệ các nhóm còn yếu, chưa mạnh dạn.

- Quy định thời gian thảo luận.

- Tất cả các đối tượng học sinh đều tham gia bàn bạc và đóng góp ý kiến.

         + Thư kí  nhóm ghi nội dung đã thống nhất vào bảng phụ.

          + Các đối tượng còn lại trong nhóm ghi nội dung đã thống nhất vào phiếu học tập( hoặc vở ghi).

- Cử một đại diện của nhóm lên thuyết minh phần nội dung thảo luận của nhóm  ( bất kì một học sinh nào không nhất thiết phải cử học sinh khá, giỏi. Vì đây là nội dung cả nhóm đã thống nhất).

- Giáo viên cho các nhóm khác góp ý bổ sung nội dung của nhóm vừa trình bày cho đầy đủ.

- Giáo viên nhận xét và cho học sinh chỉnh sửa những nội dung còn thiếu sót.

V. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.

          Qua khảo sát, tôi nhận thấy học sinh rất yêu thích, say mê môn sử. Mặc dù những tiết học đầu còn bỡ ngỡ, chưa quen, nhưng với nỗ lực, sự say mê học hỏi, phần lớn học sinh đều bày tỏ thái độ đồng tình, hợp tác với giáo viên.

            Phân tích từ góc độ quan sát thực tế thì các phương pháp mà tác giả thực nghiệm là phù hợp với năng lực của học sinh, cần thiết trong quá trình giảng dạy môn lịch sử, tạo sự hứng thú, tìm tòi, kích thích khả năng sáng tạo, khơi dậy nguồn cảm hứng học môn lịch sử ở mỗi học sinh, giúp học sinh có cơ hội được trải nghiệm, được thực hành trong quá trình tiếp thu những kiến thức và kỹ năng mới.

           Thực tế sau khi áp dụng “Một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử 7 ” đã thúc đẩy phát triển một số năng lực cần phải có cho HS như năng lực xã hội gồm: năng lực tự học, năng lực tự giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất; Năng lực quan hệ xã hội gồm: năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác; Năng lực công cụ: năng lực tính toán, năng lực công nghệ thông tin và truyền thông.

VI. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM.

1. Đối với giáo viên:

Trong quá trình vận dụng những biện pháp trên vào bài giảng tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:

Đối với phương pháp kể chuyện, sử dụng kênh hình:

          Người giáo viên phải biết kết hợp hài hòa mục tiêu cần đạt với nội dung cách làm mới. Có như vậy tiết dạy mới bảo đảm nội dung.

          Khi vận dụng người giáo viên phải sếp xếp thời gian hợp lí, nếu không sẽ không đủ thời gian cho mỗi tiết dạy.

          Giáo viên phải tìm mọi cách cho HS tự nêu lên thắc mắc của mình khi nghe câu chuyện hay nhìn vào một kênh hình, có như vậy mới để lại ấn tượng sâu sắc trong trí nhớ của các em.

          Giáo vien nên thường xuyên đặt câu hỏi có liên quan đến các tài liệu mà mình cung cấp cho các em để HS thấy rằng đọc nó rất bổ ích…

Đối với phương pháp thảo luận nhóm:

           Các tiết dạy áp dụng phương pháp thảo luận trong thời gian đầu thường không kịp giờ ( Vì kĩ năng chuẩn bị bài ở nhà của học sinh cũng như phương pháp thảo luận chưa khoa học). Đến nay thì hầu hết các học sinh đã có thói quen và làm việc khoa học, rút ngắn được một phần hai thời gian so với lúc đầu.
          Giáo viên cần phải có biện pháp kiểm tra bài soạn ở nhà của học sinh một cách thường xuyên, tránh không để cho các em chép bài của nhau mà phải bàn bạc thảo luận và thống nhất với nhau để hiểu nội dung của bài.
          Giáo viên cần phải cố gắng quản lí thật tốt khi cho các em thảo luận và khuyến khích đưa ra ý kiến ,quan điểm của mình về vấn đề đó. 
          Một số học sinh chưa có ý thức cao vẫn còn lơ là làm ảnh hưởng đến các học sinh khác và một số em khác còn nhút nhát, chưa mạnh dạn nên mặc dù có ý kiến và nắm được vấn đề nhưng không tự tin phát biểu... Nên việc quản lí, lôi cuốn các em vào hoạt động tập thể là vấn đề quan trọng mà giáo viên cần phải làm được để hoạt động nhóm thành công.

2. Đối với phụ huynh:

Điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, nhìn nhận đối xử công bằng môn sử so với các bộ môn khác.Việc học môn sử của học sinh phải luôn được người lớn khuyến khích, chia sẻ.

 

C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.

I. KẾT LUẬN.

Vận dụng phương pháp kể chuyện, sử dụng kênh hình và phương pháp thảo luận trong dạy học bộ môn lịch sử ở trường THCS nhằm phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh trong học tập. Để nâng cao hiệu quả của phương pháp dạy học tích cực, giáo viên cần hiểu rõ ý nghĩa, yêu cầu và các đặc điểm cơ bản của mỗi phương pháp. Đặc biệt là biết vận dụng các phương pháp một cách sáng tạo vào bài giảng để phù hợp với đối tượng và điều kiện dạy học cụ thể.           

Với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi hy vọng sẽ góp phần nhỏ vào việc giúp giáo viên và học sinh trường chúng tôi nói riêng, các đồng nghiệp và học sinh trường bạn nói chung thực hiện việc dạy và học môn lịch sử tốt hơn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong chương trình đổi mới của Bộ giáo dục. Về phía bản thân, tôi xin hứa sẽ tiếp tục kế thừa và phát huy những kết quả đã đạt được của việc thực hiện đề tài. Trong thời gian tới tôi sẽ tiếp tục tìm tòi, học hỏi để đưa ra những phương pháp mới nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới của ngành giáo dục.

Sau khi áp dụng một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử 7 tôi đã thu được kết quả khả quan, cụ thể như sau:

Bản tổng hợp số liệu kết quả khảo sát trước khi vận dụng một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử 7.

                                        Năm học 2015 - 2016

Sĩ số

HS ( Giỏi )

HS ( Khá )

HS (Trung bình)

HS ( Yếu )

62

16

9

30

7

Tỷ lệ

26 %

15 %

48 %

11 %

 

 

 

Bản tổng hợp số liệu kết quả khảo sát sau khi vận dụng một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử 7.

Học kì I năm học 2016 - 2017

Sĩ số

HS ( Giỏi )

HS ( Khá )

HS ( Trung bình )

HS ( Yếu )

62

50

9

3

0

Tỷ lệ

80.5 %

14.5 %

5 %

0%

 

Kết quả xếp loại trung bình môn lịch sử 7

năm học 2015- 2016 và học kì I năm học 2016- 2017

 

III. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ.

          Với kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy, tôi xin được đưa ra sáng kiến “Một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn lịch sử 7 ” để các đồng chí tham khảo, đóng góp ý kiến bổ sung để cùng nhau đưa chất lượng giáo dục môn lịch sử 7 nói riêng và các môn lịch sử lớp 6,8,9 nói chung đạt kết quả cao hơn.

Để dạy học môn sử ở trường THCS có hiệu quả tốt, đặc biệt là khi áp dụng phương pháp kể chuyện, sử dụng kênh hình và phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học tôi có một số đề xuất sau:

          Đề nghị phòng Giáo dục, hằng năm các sáng kiến kinh nghiệm được xếp loại cần được biên soạn lại và phổ biến về các cơ sở trường học để giáo viên tham khảo và vận dụng nhằm tăng tính khả thi của các đề tài nghiên cứu.

Hàng năm phòng Giáo dục cần thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, chuyên đề để giáo viên được học hỏi kinh nghiệm.

 Một trong những yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học là cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, công nghệ thông tin. Vì vậy nhà trường cần thu hút các nguồn đầu tư xây dựng, cung cấp phương tiện, công nghệ và có biện pháp sử dụng hợp lí để góp phần nâng cao chất lượng dạy học.

 

 

Xin chân thành cm ơn!

 

 

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.

 

  1. Các triều đại Việt Nam (Nhà xuất bản giáo dục)
  2. Giáo trình Đại cương lịch sử Việt Nam (Nhà xuất bản giáo dục)

3.Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử - Phan Ngọc Liên, Trịnh

Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, Trần Vĩnh Tường ( Nhà xuất bản đại học Quốc Gia Hà Nội)

4.  Phương pháp dạy học lịch sử, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội 2003

5.  Tư duy học sinh tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội

6.  Những vấn đề cơ bản giáo dục hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội 1999

7.  Sách giáo viên, sách hướng dẫn lịch sử 7 

Hỗ trợ trực tuyến
Nhom ki thuat
Tư vấn trực tuyến
Hỗ trợ trực tuyến
zalo
0386097929
Hỗ trợ Nội dung
0386097929
Tin mới
Thống kê truy cập
Quảng cáo
quảng cáo phải 1quảng cáo phai 2quangcaophai3quancaophai4qcphai5qcphai6
qctruottrai
qctruotphai
^ Về đầu trang